Ngay từ năm 1946, giữa bộn bề công việc chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Người đã dành tấm lòng trìu mến đến con các liệt sĩ: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cám ơn những liệt sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thờì kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến.Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi ”(1).
Tháng 6-1947, Người đã đề nghị chọn một ngày trong năm làm ngày thương binh liệt sĩ và tại Đại Từ, Thái Nguyên, ngày 27-7-1947 đã chính thức được Bác và Chính phủ chọn là “Ngày thương binh” trong năm và 8 năm sau, năm 1955, “Ngày thương binh” đã được đổi thành “Ngày thương binh, liệt sĩ”. Ý nghĩa sâu sắc của việc chọn ngày 27-7 hàng năm làm một ngày để toàn dân thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Thư gửi Ban thường trực tổ chức Ngày thương binh toàn quốc đầu tiên: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(2).
Từ năm 1947 cho đến khi qua đời, dù rất bận, Người vẫn thường xuyên gửi thư thăm hỏi động viên thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ vào mỗi dịp tháng 7 đến. Qua những bức thư đầy ân tình đó, một mặt Người tiếp tục khẳng định công lao và sự đóng góp to lớn của các liệt sĩ, thương binh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, đồng thời Người cũng nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân cần làm tốt hơn nữa công tác “đền ơn đáp nghĩa” với thương bệnh binh, với thân nhân họ.
Tuy nhiên xuất phát từ thực tế, Người cũng nhấn mạnh rằng: Để phong trào đền ơn đáp nghĩa trở thành một phong trào có sức lan toả, sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, một mặt toàn Đảng, toàn dân phải trân trọng, ghi nhận công lao to lớn của thương bệnh binh, mặt khác, anh em thương binh, bệnh binh cũng phải giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng của anh “bộ đội cụ Hồ”, vượt lên khó khăn để tiếp tục sống và cống hiến cho xã hội. Người thiết tha động viên những thương bệnh binh: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”(3), để mỗi người “thương binh tàn nhưng không phế”.
Theo quan điểm của Người, có rất nhiều cách để toàn dân tham gia vào phong trào “đền ơn đáp nghĩa”. Việc tổ chức thành lập các “Hội mẹ chiến sĩ”, “Hội ủng hộ thương binh”, phong trào “Trần Quốc Toản”, phong trào “Đón thương binh về làng” phần để thắt chặt tình quân dân như “cá với nước”, phần để giảm bớt khó khăn, cùng Chính phủ chăm sóc thương binh. Người mong “đồng bào các nơi sẵn sàng giúp đỡ anh em thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ trong việc sản xuất làm ăn”, đồng thời đề nghị các cơ quan, đoàn thể phải chấp hành một cách chu đáo các chính sách của Đảng và Chính phủ đối với anh em thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Theo Người, đó chính là dịp để mỗi người được thoả lòng báo đáp anh em thương binh, mà anh em thương binh thì cũng được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần, đồng thời có dịp tham gia hoạt động xã hội. Không chỉ dừng lại ở đó, ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20 về chế độ “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”, ngày 3-10-1947, Người ký sắc lệnh số 101: Thành lập Sở, Ty Thương binh, cựu binh ở khu, tỉnh và đến ngày 16-12-1952, Người ký Sắc lệnh số 129 đặt ra Bằng Bảng vàng danh dự và Bằng gia đình vẻ vang, ký nhiều Lệnh để tặng, truy tặng các danh hiệu anh hùng, huân chương, huy chương cho các liệt sĩ, thương binh, v.v… để thực hiện tốt hơn việc chăm sóc thương bệnh binh và thân nhân gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những cán bộ chuyên trách làm công tác thương binh xã hội rằng: Họ là người thay mặt và chịu trách nhiệm trước nhân dân và Chính phủ để chăm sóc đời sống tinh thần và vật chất cho anh em thương binh, bệnh binh.Vì vậy, nhiệm vụ của mỗi người công tác trong ngành phải hết lòng thương yêu, săn sóc anh em thương binh, bệnh binh, gắng sức làm cho họ vui vẻ, và ngày càng tiến bộ.
Vinh danh và luôn ghi nhớ công lao của các liệt sĩ, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ tại Đài liệt sĩ Hà Nội. Nặng ân tình, lời điếu của Người viết: “Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sĩ”(4). Và tiếp đó, trong những năm miền Bắc vừa tiến hành xây dựng CNXH, xây dựng hậu phương lớn để chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, và tiến hành chống cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ viết thư, đến thăm anh em thương binh tại các trại điều dưỡng, tại các bệnh viện và tiếp đón họ tại nơi ở và làm việc trong Phủ Chủ tịch, Người còn luôn dùng những món quà ý nghĩa để tặng thương binh, gia đình liệt sĩ. Người thường trích 1 tháng lương; dùng những món tiền do các Việt kiều biếu; dùng những bộ quần áo, khăn tay, các vật dụng khác do các đoàn thể, cá nhân tặng, v.v... để làm quà tặng cho anh em thương binh tại các trại điều dưỡng.
Nặng lòng với thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ, Người đã dặn lại trong Di chúc: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong ...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”(5).
Tiếp tục truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, tiếp tục thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thương bimh, liệt sĩ trong Di chúc, đặc biệt là làm sinh động hơn trong thực tiễn sự quan tâm, chăm sóc của Người đối với thương binh, liệt sĩ, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã cố gắng tạo điều kiện về công ăn việc làm, mở các lớp dậy nghề thích hợp,v.v... cho từng đối tượng con em thương binh và thân nhân gia đình liệt sĩ. Trong số đó, có một bộ phận thanh niên ưu tú là con em của những thương binh, gia đình liệt sĩ đã được gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Mọi việc chúng ta đang làm, tiếp tục làm và làm ngày càng tốt, càng phong phú cũng một phần để đền đáp những mất mát, đau thương, phần để thực hiện chiến lược con người trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng kế cận.
Không chỉ thực hiện pháp lệnh: Quy định Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hoá cao. Thông qua việc quan tâm hỗ trợ phát triển sản xuất, giải quyết nhà ở, ưu tiên cho con em thương binh và gia đình liệt sĩ được học hành, được dạy nghề, tạo việc làm; được chữa bệnh, và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, v.v… mức sống của các gia đình chính sách đã từng bước được nâng cao(6). Phong trào xây dựng nhà tình nghĩa; Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa; Phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam Anh hùng; chăm sóc bà mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn và con liệt sĩ mồ côi; Đỡ đầu con liệt sĩ; Đi tìm hài cốt đồng đội, quy tập mộ liệt sĩ;Tu sửa, nâng cấp, quản lý tốt các nghĩa trang, đài kỷ niệm, bia ghi tên liệt sĩ,v.v... ngày càng thu hút sự tham gia của toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng tình cảm, tấm lòng của Người với thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ và lời dặn lại trong bản Di chúc lịch sử vẫn còn lưu truyền mãi. Mỗi năm, cứ đến dịp tháng 7, những lời dạy và những việc làm thiết thực của Người về công tác thương binh, liệt sĩ vẫn luôn hiển hiện. Chúng ta cần thấm nhuần và thực hiện tốt hơn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, góp phần tri ân với những người đã hy sinh tuổi thanh xuân, hy sinh một phần thân thể, xương máu, sức lực và cả tính mạng của mình cho đất nước./.
——————-
(*) Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 435
(2) Sđd, t.8, tr. 210
(3) Sđd, t.5, tr.471
(4) Sđd, t.7, tr. 427.
(5) Sđd, t.12, tr.503
(6) Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội: đến năm 2008 đã trao tặng 231.373 nhà tình nghĩa và 628.927 sổ tiết kiệm tình nghĩa cho các gia đình chính sách.