Làm thế nào để văn nghệ dân gian sống và có sức lan toả trong cộng đồng, đặc biệt là đối với những di sản đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể của thế giới, là vấn đề đang làm đau đầu các nhà nghiên cứu
Nghệ nhân dân gian ngày càng ít
Theo GS. Tô Ngọc Thanh - người vừa được tái cử giữ chức Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian nhiệm kỳ 2010-2015, tốc độ nghiên cứu và sưu tầm văn hóa dân gian của chúng ta hiện nay còn quá chậm. Nếu đem so sánh số nghệ nhân được phong tặng với số lượng di sản văn hoá của dân tộc thì không thấm vào đâu.
Ông Vũ Tiến Kỳ - Chi hội văn nghệ dân gian Hưng Yên - cho rằng, thời gian để nghiên cứu, tìm hiểu cũng như sưu tầm văn nghệ dân gian không còn nhiều. Vì các nghệ nhân - những người trực tiếp lưu giữ vốn tài sản vô giá này của dân tộc - mấy năm nay đã thưa vắng nhiều. Chúng ta không tranh thủ thời gian sưu tầm để lưu giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp của quá khứ thì thiếu sót do làm mất tài sản quốc gia thuộc về những người đang sống.
Ông Vũ Tiến Kỳ ngậm ngùi: “Ở Hưng Yên, cách đây 3 năm, chúng tôi còn ngồi nghe kể chuyện bằng thơ về tướng quân Phạm Ngũ Lão. Thế mà nay người kể chuyện đã thành thiên cổ. Vì thế, hãy tiếp sức cho văn nghệ dân gian”. Nếu không chớp lấy thời gian thì chúng ta không còn vận may được nghe những chuyện kể dân gian như truyện thơ về vị tướng họ Phạm đó. Không có tư liệu văn nghệ dân gian, các thế hệ sau càng không có gì để nhận biết: văn hoá cổ truyền, tài sản tinh thần của cha ông để lại có những thứ gì? Giá trị của chúng đến đâu? Hiệu quả của văn hoá hội nhập sẽ thế nào?
Điều rõ ràng là những nơi nào có nghệ nhân được phong tặng danh hiệu thì vốn di sản văn hoá của địa phương đó đều được khôi phục, thực hành, truyền dạy và duy trì. Các nghệ nhân không chỉ góp phần khôi phục, truyền dạy mà còn là người chủ chốt duy trì những hoạt động văn hoá - văn nghệ dân gian ở cơ sở...
Theo GS. Tô Ngọc Thanh, trong những năm qua, đã có 105 di sản thuộc các loại hình văn hoá - văn nghệ dân gian của các dân tộc Việt Nam trong cả nước thoát khỏi nguy cơ mai một, được khôi phục và duy trì cùng sự dẫn dắt của các nghệ nhân. Đây được coi là một biện pháp tốt nhất để bảo tồn di sản văn hoá dân tộc.
Kinh phí nghiên cứu chỉ đủ “chè nước”
Theo GS. Tô Ngọc Thanh, vấn đề nan giải nhất của Hội hiện nay chính là kinh phí. Trung bình mỗi năm, Nhà nước cấp cho Hội chừng 400 - 500 triệu đồng. Tính trung bình, mỗi chi hội cũng chỉ được vài chục triệu mỗi năm. “Như vậy, một công trình viết trong 1 năm, khoảng 700 - 800 trang, chỉ nhận được chừng 7 - 8 triệu đồng. Mặc dù vậy, hằng năm, chúng tôi vẫn nhận được hàng trăm công trình. Phải nói đó là sự cố gắng to lớn của các anh em hội viên” - GS. Tô Ngọc Thanh chia sẻ.
Với số tiền chỉ đủ để “chè nước” như vậy, đây quả thực là một kiểu làm khoa học độc nhất vô nhị mà chỉ ở văn nghệ dân gian Việt Nam mới có. Kinh phí hiện nay đang là vấn đề của Hội. Trung ương Hội còn được chút xíu gọi là “lệ phí chè nước”, còn các chi hội thì hoàn toàn không. Song vì say mê, hội viên vẫn hoàn thành các đề tài đã đăng ký. “Nhà nghèo, đông con, chia cơm còn khó” nữa là Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam với trên 1.000 hội viên, bao quát địa bàn 63 tỉnh, thành cả nước.
Mặc dù trong thời gian qua, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã cố gắng hết sức kêu gọi các nguồn tài trợ ngoài ngân sách, điển hình là Quỹ Ford đã tài trợ để nghiên cứu, phục hồi những di sản đang mai một. Nhưng vẫn không thấm vào đâu so với khối lượng công việc cần phải làm. Hơn nữa, Quỹ Ford cũng chỉ tài trợ để phục hồi những di sản đã được UNESCO công nhận, nghĩa là những di sản đã có danh tiếng như ca trù, quan họ...
Trong 5 năm qua, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã đóng góp không nhỏ vào công việc giữ gìn và khôi phục nguồn văn nghệ dân gian của dân tộc. Sự kiện ca trù, quan họ được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới là một trong những thành công lớn. Tuy nhiên, nói như GS. Tô Ngọc Thanh, thì trong tương lai, cần hơn bao giờ hết sự chung tay góp sức của toàn xã hội vào công cuộc giữ gìn vốn di sản độc đáo của toàn dân tộc./.
Mai Lan (Báo TNVN)