Nhân dịp Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 năm Tân Mão - 2011, PGS.TS Nguyễn Chí Bền, Viện trưởng Viện Văn hóa - Nghệ thuật Việt Nam trả lời phóng vấn về nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Thưa PGS, xin ông cho biết những nét khái quát nhất về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương?
Ông Nguyễn Chí Bền: Tín ngưỡng thờ Hùng Vương là đỉnh cao tâm thức dân tộc và Giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành lễ hội văn hóa lớn của dân tộc.
Theo truyền thuyết, Hùng Vương gắn với một nhà nước thời cổ địa ở khu vực châu thổ Bắc Bộ. Các nguồn tư liệu chúng ta có được cho biết, khoảng từ thế kỷ 14-15, nhà Lê bắt đầu cho xây dựng bộ ngọc phả Hùng Vương, sau đó là việc thờ cúng Hùng Vương.
Các triều đại sau đó như nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có việc phong sắc giao cho các làng, xã xung quanh núi Nghĩa Lĩnh (huyện Lâm Thao, Phú Thọ) thờ cúng Hùng Vương.
Cho đến nay tín ngưỡng này phát triển mạnh. Sở dĩ có điều này là bởi vì tất cả người dân Việt luôn luôn coi Hùng Vương là thủy tổ của dân tộc, là ông vua lập nước.
Trong tâm thức dân gian Việt Nam, đây là một tín ngưỡng khá đặc biệt vì luôn luôn được sự đồng thuận giữa các thể chế xã hội và thái độ của cộng đồng.
Trong thời đại của chúng ta cũng vậy. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ủy quyền cho ông Huỳnh Thúc Kháng thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm lễ trước miếu thờ các Vua Hùng. Đến giờ, nghi lễ thờ cúng Vua Hùng đã được nâng lên tầm quốc gia, trở thành một sự kiện văn hóa lớn.
Hoạt động này khơi dậy ý thức cội nguồn thiêng liêng, khơi dậy tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cả dân tộc phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Từ năm 2000, 5 năm 1 lần, Lễ hội Đền Hùng được tổ chức theo nghi thức quốc giỗ.
Từ những nghi lễ ban đầu trong tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đến ngày nay có sự chuyển biến như thế nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Chí Bền: Khi nói đến tín ngưỡng thì bao giờ cũng phải nhắc đến sự thể hiện tín ngưỡng đó như thế nào. Ở nước ta, một trong những lễ hội thu hút đông đảo khách thập phương nhất là lễ hội Đền Hùng.
Thời trước đây thì quan tỉnh về núi Nghĩa Lĩnh để chủ trì buổi lễ (buổi lễ của triều đình tưởng nhớ ông tổ của quốc gia). Những năm khác thì có thể giao cho quan huyện.
Sau này, chúng ta cũng qui định như vậy. Nhưng từ năm 2000 trở đi, Nhà nước có quy định chính thức về tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương. Theo đó, những năm chẵn lễ hội Đền Hùng do quốc gia tổ chức, còn những năm khác do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Điều này rất là tốt trong việc gìn giữ một nghi lễ tưởng nhớ công đức tổ tiên, một nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
Trên thực tế chúng ta cũng đã thấy rõ là lễ hội Đền Hùng được quan tâm ở cấp Nhà nước.
|
Lễ hội Đến Hùng |
Thưa ông, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có nhiều lớp văn hóa phong phú và có một không gian rất rộng. Xin ông nói rõ thêm về điều này?
Ông Nguyễn Chí Bền: Các lớp văn hóa của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương chồng xếp lên nhau. Lớp văn hóa đầu tiên là nghi lễ thờ thần núi ở các làng, xã ở Phú Thọ. Sau đó tín ngưỡng thờ cúng được chuyển hóa. Từ thờ đất nước, núi non trở thành thờ cúng ông tổ.
Không gian của tín ngưỡng này rất rộng. Một cuốn sách chữ Hán từ thế kỷ 17 cho biết lúc đó có 73 làng xung quanh núi Nghĩa Lĩnh thờ cúng Hùng Vương. Kết quả điều tra năm 1938 của Viễn Đông Bác cổ (Pháp) và kết quả điều tra năm 1964 của Ty Văn hóa tỉnh Phú Thọ khẳng định có hơn 100 làng xã thờ cúng Hùng Vương. Hiện nay, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được duy trì ở 122 làng, xã thuộc tỉnh Phú Thọ..
Sở dĩ không gian của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có sức lan tỏa như vậy vì cốt lõi của nó là việc thờ cúng tổ tiên của người Việt. Người Việt trong gia đình, gia tộc thì thờ tổ tiên của gia tộc mình, ra làng xã thì thờ những người có công lao với làng xã, đến với cộng đồng lớn hơn thì thờ Hùng Vương với tư cách là ông tổ của đất nước, vị thủy tổ của dân tộc. Điều này với người Việt Nam rất thiêng liêng và cũng vì thế, hoạt động này vẫn được duy trì trong một không gian rộng ở thời hiện đại.
Thưa ông, như ông vừa nêu thì không gian của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương rất lớn, vậy vấn đề bảo tồn được đặt ra như thế nào?
Ông Nguyễn Chí Bền: Không gian văn hóa tín ngưỡng thờ Hùng Vương hiện tồn tại ở 122 làng, xã của các huyện ở Phú Thọ. Vì vậy câu chuyện bảo tồn sẽ đặt ra ở hai khu vực: một là không gian văn hóa của tín ngưỡng đó cần được bảo tồn, hay nói một cách giản dị hơn là cần có chỗ để cho người ta đến để thực hành nghi lễ.
Không gian văn hóa tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở một số làng thời gian vừa qua không phải không có nơi đã bị xuống cấp, hư hại. Trách nhiệm của chúng ta là phải phục hồi sao cho đảm bảo điều kiện cho việc thực hành nghi lễ.
Thứ hai là cần làm cho cộng đồng nhận thức được đầy đủ giá trị của tín ngưỡng.
Để bảo tồn và phát huy tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, chúng ta có thuận lợi là trong tâm thức của tất cả mọi người dân Việt Nam luôn luôn có dòng chảy là thấm nhuần đạo lý uống nước nhớ nguồn, thấm nhuần đạo lý nhớ ơn, biết ơn tổ tiên. Vì vậy sức sống của tín ngưỡng trong cộng đồng không phải là điều chúng ta quan ngại.
Với người Việt trong xã hội đương đại thì tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành một sợi chỉ đỏ để liên kết cội nguồn, liên kết mọi người hướng về cội nguồn. Đó chính là sức mạnh, là cơ sở để tạo ra truyền thống đại đoàn kết của dân tộc. Đây là điều làm cho tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn phát triển. Chúng ta chỉ cần quan sát dòng khách hành hương nườm nượp hàng về Đền Hùng, quan sát thờ tín ngưỡng này ở Trung Bộ, Nam Bộ và một số quốc gia có người Việt sinh sống, chúng ta sẽ thấy được sức sống của nó trong xã hội đương đại như thế nào.
Theo cá nhân tôi, việc bảo tồn tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương cần được quan tâm ở nhiều chiều, trong đó có vai trò của giáo dục - nhà trường là rất quan trọng. Bởi thế, tôi cho rằng số giờ học hiện nay về Hùng Vương trong chương trình giáo dục phổ thông còn ít. Để giáo dục thế hệ trẻ nói riêng ý thức cội về nguồn rất mong tất cả chúng ta góp sức.
Xin trân trọng cảm ơn ông.
Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ VHTTDL đã hoàn tất bộ Hồ sơ “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” đề nghị UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Bộ Hồ sơ (do Bộ VHTTDL và tỉnh Phú Thọ giao cho Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam và Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng thực hiện) gồm: Bản đồ, tư liệu, lý lịch nghệ nhân, báo cáo khoa học và văn bản liên quan. Ngoài khu vực Đền Hùng, tín ngưỡng thờ cúng còn gắn với lễ hội ở 3 địa danh xung quanh Đền Hùng là Việt Trì, Phù Ninh và Lâm Thao. Đây cũng là các khu vực bổ trợ tư liệu cho hồ sơ.
Ban xây dựng hồ sơ và các đơn vị liên quan tiến hành 2 đợt kiểm kê di sản tín ngưỡng thờ Hùng Vương theo hướng dẫn của UNESCO tại 226 di tích thuộc 106 xã trên địa bàn 12 huyện, thành, thị xã; thực hiện việc ghi hình, chụp ảnh tư liệu sưu tầm được ở 226 địa điểm thờ Hùng Vương; xuất bản bộ sách “Tuyển tập các công trình nghiên cứu về Hùng Vương”; điều tra thu thập tư liệu trong và ngoài nước về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Bộ Hồ sơ đã được gửi cho UNESCO theo đúng lịch trình vào ngày 31/3/2011.
Theo dự kiến, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” sẽ được đưa vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại vào kỳ xét duyệt năm 2012 của UNESCO. |
(Mai Hồng/chinhphu.vn)