Được sự uỷ nhiệm của những người cộng sản, ngày 24 tháng 2 năm 1848, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo được công bố trước toàn thế giới.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ địa vị đặc biệt quan
trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự ra đời của
tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ
nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn là cương lĩnh chính trị
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là kim chỉ nam hành động
của toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp
công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức,
bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa
bình, tự do và hạnh phúc.
I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
đạt tới trình độ phát triển: đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát
triển ở một số nước châu Âu. Cùng với sự phát triển của nền đại công
nghiệp, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước lên vũ đài đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản. Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ XIX, ở
một số nước tư bản phát triển, giai cấp vô sản đã vùng lên đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những yêu sách của mình cả về
kinh tế lẫn chính trị. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào vô sản
là những cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm
1837; cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844; phong
trào hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm (1838 - 1848).
Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi
một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương
lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuối tháng 11,
đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người cộng sản đã
thảo luận và thông qua những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do Mác và
Ăng ghen trình bày. Trên cơ sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được
Đại hội ủy nhiệm thảo ra bản tuyên ngôn chính thức.
Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng là thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác.
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện được cuộc cách
mạng tư tưởng với đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa những
quy luật vận động của giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
Toàn bộ thành tựu trí tuệ của loài người được tổng kết, khái quát.
II. Tư tưởng chủ yếu và nội dung của tác phẩm
Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng
định rằng, giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời
giải phóng toàn xã hội.
Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu
không tổ chức thành chính đảng của giai cấp, Đảng được hình thành và
phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Quan điểm
cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của giai
cấp công nhân được Mác và Ăngghen trình bày rõ trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Nội dung Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph.Ăngghen
trình bày thành bốn chương. Ngoài ra, mỗi lần xuất bản, hai ông còn
viết lời tựa để thuyết minh và làm rõ hơn nội dung tư tưởng của Tuyên
ngôn (bổ sung nội dung Tuyên ngôn).
Chương I: Tư sản và vô sản
1. Sự phát triển của xã hội loài người:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản
nguyên thủy tan rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa các giai cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp bóc lột.
Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn
thù địch với nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nội dung
cơ bản của sự vận động của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng
sản.
2. Vị trí lịch sử của giai cấp tư sản
Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, những công trường thủ công được thay thế bằng những xí nghiệp hiện
đại, những chủ công trường thủ công đã trở thành những chủ xí nghiệp
tức là những nhà tư sản hiện đại.
Khi mới ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có một
vai trò hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất đang lên, giai cấp tư sản đã làm cuộc cách mạng lật đổ
giai cấp phong kiến quý tộc, giành địa vị thống trị.
Sau khi nắm được chính quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá
hủy những quan hệ sản xuất phong kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập
hệ thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển. Chưa đầy một thế kỷ, giai cấp tư sản thống
trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.
Để đáp ứng yêu cầu của sản xuất và trao đổi, giai cấp tư sản đã
thẳng tay xóa bỏ tình trạng cát cứ, phong kiến. Trên cơ sở đó, đưa đến
sự tập trung về kinh tế chính trị, hình thành một quốc gia dân tộc thống
nhất, phục vụ cho lợi ích của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản
thiết lập thị trường thế giới. Đồng thời, chúng buộc các dân tộc chậm
phát triển phải du nhập cái gọi là văn minh tư sản, làm nảy nở nền văn
hóa thế giới.
Giai cấp tư sản đã thiết lập nền dân chủ tư sản. Tuy là nền dân
chủ cắt xén, nhưng so với chế độ quân chủ chuyên chế thì đó là một tiến
bộ trong lịch sử.
Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học -
kỹ thuật. Đồng thời sẽ xóa bỏ tất cả những gì không phù hợp với lợi ích
của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức
cách mạng trong lịch sử. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên chỉ
ra cho chúng ta thấy rõ loài người có khả năng làm được những gì.
Vốn có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò
cách mạng của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản
chỉ làm đơn giản hóa giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. Nó phân
chia xã hội ra làm hai phe thù địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối
lập nhau: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đấu tranh nảy sinh ngay từ
khi chủ nghĩa tư bản ra đời.
Giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí để giết mình, nó còn
tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những
người vô sản.
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản
Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ
nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là điều mà
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.
Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Cùng với sự
phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị
phân hóa, suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng
với sự phát triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản được tuyển lựa trong
tất cả các giai cấp trong dân cư. Sự tiến bộ của đại công nghiệp còn đẩy
từng bộ phận trong giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai cấp vô sản, bộ
phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản những yếu tố tiến bộ. Hơn nữa,
khi đấu tranh chống chế độ phong kiến, giai cấp tư sản buộc phải kêu gọi
sự giúp đỡ của giai cấp vô sản, và do đó, đã lôi cuốn giai cấp vô sản
vào cuộc vận động chính trị, nghĩa là đã cung cấp cho giai cấp vô sản
những yếu tố tri thức chính trị phổ thông, những vũ khí mà sau này giai
cấp vô sản sẽ sử dụng để chống lại giai cấp tư sản.
Giai cấp vô sản không có tài sản, phải bán sức lao động cho tư
sản, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống
của thị trường. Những người vô sản chẳng có cái gì là của mình để bảo
vệ, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì từ trước tới nay vẫn bảo đảm
và bảo vệ cho chế độ tư hữu.
Giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, còn các giai cấp
trung gian mang tính bảo thủ, hơn thế họ còn là phản động, tìm cách làm
cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại. Đoàn kết thống nhất là một thuộc
tính cơ bản của giai cấp vô sản để đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Giai cấp vô sản luôn bị áp bức cùng cực bởi giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản đã không đảm bảo cho giai cấp vô sản những điều kiện
sinh hoạt tối thiểu cho họ có thể sống được trong vòng nô lệ. Như vậy,
có nghĩa là, sự tồn tại của giai cấp tư sản không còn tương dung với sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó, “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản
và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Song, để bảo đảm
bảo cho sự thắng lợi đó, giai cấp vô sản phải có những điều kiện đảm
bảo cho công cuộc tự giải phóng mình. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng
Anh xuất bản năm 1888, Ph.Ăngghen đã chỉ ra điều đó: “Chính do bản thân
các sự biến và do những thành bại trong cuộc đấu tranh chống tư bản - do
những thất bại nhiều hơn là do những thành công - mà công nhân không
thể không cảm thấy rằng tất cả các môn thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng,
họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy tường tận những điều kiện thực
sự của công cuộc giải phóng giai cấp công nhân”. Điều kiện đó là sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử.
Những cuộc đấu tranh đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn
kết thành tổ chức. Sự tổ chức như vậy thành chính Đảng. Sự tồn tại, phát
triển của Đảng vì sứ mệnh của giai cấp vô sản. Đảng kết thúc vai trò
khi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản hoàn thành.
Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng
ngũ của mình giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà
tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân. Song, khi sắp
rơi vào hàng ngũ vô sản họ đã tự nguyện từ bỏ quan điểm của chính họ để
đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ lợi ích tương lai của
họ. Hơn nữa, khi cuộc đấu tranh giai cấp tiến gần tới giờ quyết định,
giai cấp thống trị bị phân hóa, một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai cấp
này đi theo giai cấp vô sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản
vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ cuộc vận động. Thực tiễn
đó đã khẳng định rằng, các tầng lớp trung gian và cả giai cấp thống trị
(tầng lớp) trên của xã hội cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của
mình để tham gia hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản
Chương này C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày tính tiên phong của
Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp, những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, một số nguyên lý chiến lược,
sách lược cách mạng.
1. Tính tiên phong của Đảng
Sự trưởng thành của giai cấp vô sản được đánh dấu bằng sự ra đời
của Đảng Cộng sản. Song, Đảng Cộng sản khác với toàn bộ giai cấp vô sản
ở tính tiên phong. Tính tiên phong của Đảng thể hiện: tiên phong trong
hành động thực tiễn, tiên phong về mặt lý luận. Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản đã trình bày: những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong
các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy
phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp
vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung
của phong trào vô sản. Vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập
hợp được giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo cho
giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Nhưng Đảng
Cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền
với giai cấp. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp: “Họ
tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai
cấp vô sản”. Mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là đại
biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản.
Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của
chính Đảng mà còn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự
lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ trước hết của Đảng là: Giai đoạn thứ nhất, tổ chức
những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền; giai đoạn thứ hai, dùng sự
thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong
tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công nhân sản xuất vào
trong tay nhà nước. Mác - Ăngghen đã định nghĩa: Nhà nước tức là giai
cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị. Với tư cách là giai
cấp thống trị, giai cấp vô sản dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất
cũ; đồng thời tiêu diệt những điều kiện của sự đối kháng giai cấp. Nó
tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng tiêu diệt cả sự thống trị của
chính ngay giai cấp mình. Giai cấp vô sản không cố chấp về quyền lợi, về
vai trò tồn tại của mình. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để đưa
đến xóa bỏ giai cấp và xóa bỏ mình. Đó là giai đoạn cao của chủ nghĩa
cộng sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hình thành. Đảng không
còn tồn tại cùng với sự mất đi của các giai cấp là tất yếu khách quan.
2. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học
Để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã
khẳng định và bảo vệ một loạt những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Lý luận của những người cộng sản là sự phản ánh hiện thực
khách quan của phong trào vô sản. Tuyên ngôn đã khẳng định: “lý luận của
những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những
nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra”.
Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những điều kiện
thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một phong trào
lịch sử đang diễn ra.
- Vấn đề sở hữu:
Lý luận của người cộng sản là xóa bỏ sở hữu tư bản, xóa bỏ chế
độ tư hữu tư bản. Giai cấp tư sản xuyên tạc rằng, người cộng sản xóa bỏ
cái riêng của cá nhân. Tư bản không phải là lực lượng cá nhân, nó là một
lực lượng xã hội, nhưng nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động
chung của toàn xã hội. Người sở hữu thì không lao động, người lao động
thì không được quyền sở hữu, xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy,
chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội.
- Vấn đề tự do cá nhân:
Mác và Ăngghen khẳng định rằng, trong xã hội tư bản chỉ có nhà
tư sản có tính đối lập và cá tính, còn cá nhân người lao động thì mất
độc lập và cá tính. Do đó, phải xóa bỏ cá tính tư sản, tính độc lập tư
sản, và tự do tư sản, thứ tự do buôn bán và bóc lột sức lao động của
người khác để hình thành xã hội mới trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
- Chế độ gia đình:
Người cộng sản chủ trương xóa bỏ gia đình tư sản, khi chế độ tư
bản bị xóa bỏ thì quan hệ gia đình tư sản cũng tiêu tan. Bởi vì quan hệ
gia đình tư sản dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân nhà tư sản, người phụ
nữ coi như một công cụ sản xuất, dựa trên chế độ cộng thể, nạn mãi dâm
chính thức và không chính thức. Tư sản đã chà đạp mối liên hệ gắn bó
người vô sản với gia đình.
- Vấn đề giáo dục:
Người cộng sản không bịa ra tác động của xã hội đối với giáo dục
vì nó là cái vốn sẵn có mà chỉ thay đổi tính chất của sự tác động ấy và
kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản mà thôi.
- Vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế:
Dưới chủ nghĩa tư bản, người cộng sản không có tổ quốc, giai cấp
tư sản nắm quyền đại diện cho tổ quốc, dân tộc, lợi ích của tổ quốc và
dân tộc mà cơ bản là lợi ích của giai cấp tư sản cho nên giai cấp vô sản
mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành
một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn
không phải theo cái nghĩa mà giai cấp tư sản hiểu.
- Vấn đề tôn giáo:
Giai cấp nào thống trị xã hội thì quan điểm, ý thức tư tưởng của
xã hội là của giai cấp đó. Dưới chủ nghĩa tư bản, những tư tưởng về tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kỳ cạnh tranh
tự do trong lĩnh vực tri thức mà thôi. “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là
sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá
khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát
triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế
thừa của quá khứ”.
3. Những nguyên lý chiến lược và sách lược của Đảng
- Cách mạng phát triển qua hai giai đoạn:
Giai đoạn l: Xây dựng giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị,
giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền. Con đường giành chính quyền
bằng bạo lực.
Giai đoạn 2: Giai cấp vô sản sử dụng quyền lực chính trị của
mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, tước đoạt kẻ đi tước
đoạt. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn nêu mười biện pháp cụ thể
mà Mác - Ăngghen cho rằng có thể áp dụng ở những nước tư bản phát triển
nhất lúc bấy giờ nhằm cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Mười biện
pháp đó thể hiện chuyên chính trong hành động.
- Vấn đề chính quyền nhà nước.
Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
C.Mác và Ph. Ăngghen chưa dùng đến thuật ngữ chuyên chính vô sản nhưng
tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được hai ông diễn đạt một cách rõ
ràng như: “Giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”; “Giai cấp vô sản đã
được tổ chức thành giai cấp thống trị”.
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời là sự cáo chung đối
với tất cả các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản trước đó. Các trào
lưu xã hội chủ nghĩa xuất hiện như là một tất yếu lịch sử. Tuyên ngôn
xác định thái độ cụ thể với từng trào lưu: Phê phán các trào lưu xã hội
chủ nghĩa phản động của phong kiến tiểu tư sản. Tuyên ngôn dành sự đánh
giá thích đáng chủ nghĩa xã hội. Tất cả các trào lưu xã hội chủ nghĩa
phi vô sản đều là trở ngại cho việc ra đời của chính Đảng. Tuyên ngôn
phê phán những trào lưu đó nhằm bảo đảm thắng lợi cho việc truyền bá học
thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng độc lập
Chương này khẳng định lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về những vấn đề chiến lược và sách lược mềm dẻo của Đảng.
Nguyên tắc có ý nghĩa chiến lược của người cộng sản là: Chiến
đấu cho mục đích trước mắt của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong
phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong
trào.
Xuất phát từ thực tế lịch sử của nước Đức và một số nước ở Châu
Âu lúc đó, những mục đích và lợi ích trước mắt của giai cấp vô sản bấy
giờ là đấu tranh đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế thực hiện quyền tự
do dân chủ; còn tương lai của phong trào là đấu tranh chống lại ách áp
bức bóc lột của giai cấp tư sản. Ở tất cả các nước, những người cộng sản
ủng hộ mọi phong trào cách mạng, và trong những phong trào ấy, họ vẫn
đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào.
Trong khi liên hợp với các đảng phái để chống lại thế lực phản
động đang thống trị, Đảng Cộng sản xác định rằng: giành độc lập, liên
minh nhưng phải có đấu tranh, có thỏa hiệp. Tất nhiên bao giờ Đảng cũng
phải giữ vững nguyên tắc và giữ vững lập trường của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản tuyên bố quan điểm cách mạng không ngừng, mục đích của họ
chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội
hiện có. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết,
ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng, họ giành cả
thế giới cho mình.
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, là khẩu hiệu chiến đấu công khai tuyên bố quá trình quốc tế của phong trào vô sản.
III- Ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ
yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen
trình bày trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn
bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn
một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề
mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng.
Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của
Đảng ta.
- Về vai trò của Đảng: Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đều
khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu trong tất cả các giai
đoạn cách mạng.
- Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta khẳng định vấn đề nâng
cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong công tác
xây dựng Đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo.
- Sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp - tư tưởng này làm
cơ sở cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.
- Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận
bản chất lập trường quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã
hội, những kết luận đó vận dụng trong công tác phát triển Đảng, công tác
cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần.
Những tư tưởng quan điểm về xây dựng Đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta./.
TG
(Theo: Giới thiệu tác phẩm của C.Mác và
Ph.Ăngnghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà
nước, Nxb.CTQG, H, 1999).