Thứ Tư, 27/11/2024
Nghiên cứu trao đổi
Thứ Ba, 19/2/2013 15:9'(GMT+7)

Văn hoá Việt Nam và việc xây dựng nền văn hoá

Gọi văn hoá Việt Nam là những gì phục vụ cho đời sống tinh thần của người Việt Nam, kể cả đời sống tâm linh, là sự thể hiện tư duy sáng tạo, sáng tác, phát minh, là ý thức về ngôn ngữ, về lịch sử, về kinh tế, chính trị, xã hội, về đạo đức, về thẩm mỹ của người Việt Nam cùng với những phương thức tiếp nhận những giá trị về đời sống tinh thần trong quan hệ giao lưu với các dân tộc khác. Trong văn hoá tinh thần, có văn hoá vật thể và phi vật thể.

Văn hoá Việt Nam đã được hun đúc từ nhiều nguồn - nguồn văn hoá truyền thuyết trong thời các Vua Hùng dựng nước, nguồn văn hoá của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, nguồn văn hoá các tôn giáo, nguồn văn hoá phương Tây về cái gọi là "khai hóa văn minh" của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc.

Từ khi Bác Hồ xác định con đường cứu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, cho ra đời cuốn "Đường Kách mệnh" nêu rõ: "Muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc tư và Lênin"(1), sự kiện đó đã mở đầu cho hai nguồn văn hoá mới - nguồn văn hóa Mácxít và nguồn văn hóa Hồ Chí Minh.

Về nguồn văn hóa Mác xít, là những gì mà Đảng ta vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là các tác phẩm của Mác-Ăng ghen, Lênin cùng với khối lượng sách, báo Mác xít đồ sộ với nội dung phong phú về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn hoá Mácxít trở thành nguồn văn hoá chủ đạo trong nền văn hoá Việt Nam khi Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Sự đóng góp quan trọng nhất của văn hoá Mácxít, là góp phần xây dựng phương pháp tư duy khoa học về thế giới, về lịch sử, về lẽ sống con người, làm cho văn hoá Việt Nam mang tính hiện đại, trong lúc tình hình đất nước về mặt xã hội, kinh tế, còn lạc hậu. Cùng với Đảng Cộng sản và ngọn cờ đỏ mang hình búa liềm, văn hoá Mácxít đã thổi bùng lên ý thức về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân công nghiệp Việt Nam, ý thức về sức mạnh to lớn của nhân dân lao động chân tay và trí óc Việt Nam trong cuộc đấu tranh để giành, giữ vững và xây dựng chính quyền, ý thức về con đường đi đến một thế giới đại đồng Cộng sản, con người được sống thật sự là Người.

Về nguồn văn hoá Hồ Chí Minh, trong bài diễn văn khai mạc Đại hội II của Đảng ngày 11-2-1951 của đồng chí Tôn Đức Thắng đã cho rằng - đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là của Hồ Chí Minh(2). Sau ngày Bác mất hơn 20 năm, trong Cương lĩnh của Đảng đã nhìn nhận "tư tưởng Hồ Chí Minh", xếp cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin. Năm 1990, tổ chức UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất. Và Hồ Chí Minh trong thực tế còn là người tiêu biểu cho một nguồn văn hoá - Văn hóa Hồ Chí Minh. Văn hoá Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa văn hoá cổ truyền của dân tộc với những tinh hoa văn hoá phương Tây và phương Đông cùng với văn hoá Mácxít, để trở thành nguồn văn hoá đặc sắc của nền văn hoá Việt Nam. Văn hóa Hồ Chí Minh là nguồn văn hoá về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, vì độc lập cho đất nước, vì tự do hạnh phúc cho dân, chăm bồi môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội lành mạnh cho cuộc sống con người, bảo vệ hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc và tình đoàn kết quốc tế, bốn phương vô sản đều là anh em…

Thuộc nguồn văn hoá Hồ Chí Minh có những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể - bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bảo tàng, các di tích lịch sử văn hoá, các sách, báo viết về Hồ Chí Minh, các ảnh, tượng, tượng đài khắp nơi trên cả nước… Bản Di chúc cuối đời của Người là một tác phẩm văn hoá vô cùng quý giá. Nguồn văn hoá Hồ Chí Minh đã làm cho dân tộc ta, khi đương đầu với các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, có tư thế đứng trên đầu thù, có khí phách hiên ngang, biết sống oanh liệt, chết vẻ vang. Văn hoá Hồ Chí Minh đã định hướng cho chúng ta tu dưỡng về đức cần kiệm liêm chính, về đạo làm người, về sự kiên định con đường giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, với tinh thần "không có gì quý hơn độc lập tự do".

Về việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam, trong Cương lĩnh hiện hành của Đảng nêu rõ nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là một khái niệm đối lập với lạc hậu lỗi thời. Văn hoá ở thời nào cũng được cuộc sống con người chắt lọc, để giữ mặt tiên tiến loại bỏ mặt lạc hậu lỗi thời. Trong hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá tại Vơnidơ (Venise) ở nước Italia, năm 1970, nguyên Tổng giám đốc UNESCO, Ông Mayo (E.Mayor) đã đưa ra một khái niệm về văn hoá, vừa mang tính khái quát, vừa mang tính đặc thù, được cộng đồng quốc tế công nhận. Đó la:â "Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động"(3). Theo khái niệm này thì văn hoá đương nhiên là mang bản sắc dân tộc.

Nền văn hoá Việt Nam ta, ở thời nào cũng có tính tiên tiến và bản sắc dân tộc. Tuyên ngôn: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" (sông núi nước Nam vua nước Nam ở) thời chống giặc Tống phương Bắc, là biểu hiện của văn hoá tiên tiến dân tộc. Lời hịch của vua Quang Trung: "Đánh cho để dài tóc", "Đánh cho để đen răng" (không chịu để đồng hóa với giặc Thanh Trung Quốc có tóc ngắn và răng trắng),"Đánh cho nó chích luân bất phản (Đánh cho nó, một chiếc xe để chạy về nước cũng không có) Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn (Đánh cho nó, một mảnh giáp cũng chẳng còn), Đánh cho sử tri, nam quốc anh hùng chi hữu chủ" (Đánh cho lịch sử biết rằng,  nước Nam anh hùng là có chủ). Lời hịch đó cũng là biểu hiện của văn hoá dân tộc tiên tiến.

Trong Cương lĩnh hiện hành, sau khi nêu hai tính chất đương nhiên về văn hoá, là tiên tiến và mang bản sắc dân tộc, còn nêu cụ thể về xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với tám định hướng sau đây:

- Một là: Văn hoá phải được phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chu,ã tiến bộ làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu toàn bộ đời sống xã hội.

- Hai là: Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.

- Ba là: Phát triển nâng cao chất lượng sáng tạo văn hoá, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ; phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá.

- Bốn là: Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân.

- Năm là: Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời.

- Sáu là: Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.

- Bảy là: Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục về đạo đức và nếp sống tốt đẹp cho con người.

- Tám là: Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao và là nơi bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người Việt Nam.

Trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc còn cần chú trọng hai mặt - có nền ngày càng bền vững và có đỉnh ngày càng cao. Nền của văn hoá là mặt bằng dân trí và trình độ học vấn của nhân dân lao động. Đỉnh cao là những nhân tài về văn hoá với những tác phẩm, những công trình có giá trị lớn về tư tưởng và nghệ thuật trên các lĩnh vực văn hoá, làm cho văn hoá Việt Nam sánh vai cùng văn hoá tiên tiến các nước trên thế giới./.

Trần Trọng Tân
----------------------

(1) - Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.2, tr.280.

(2) Tôn Đức Thắng: Những bài nói, bài viết chọn lọc, Nxb. CTQG, H, 2005, tr. 27.

(3) - Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, H, 2005, t.4, tr. 798.


                        


Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất