Thuở xưa, mỗi khi Tết đến Xuân về, người
Việt Nam đều có phong tục chơi tranh Tết. Tranh Tết là một trong những
nghi thức trang trí cho những ngày Tết, phổ biến nhất là vùng nông thôn
rộng lớn ở nước ta.
Vào những ngày cuối tháng Chạp âm lịch,
người dân Việt Nam có truyền thống đi chợ Tết để mua sắm những nhu yếu
phẩm và vật dụng phục vụ cho 3 ngày "ăn Tết" và "chơi Tết", trong đó,
một thứ không thể thiếu là tranh Tết. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, từ những
năm của thập kỷ tám mươi trở về trước, tranh Tết phổ biến nhất là tranh
dân gian, trong đó có hai dòng tranh chủ yếu là tranh Đông Hồ (làng Hồ -
Bắc Ninh) và tranh Hàng Trống (Hà Nội).
Tranh Đông Hồ là một loại tranh in mảng,
nét, kích cỡ nhỏ hơn tranh Hàng Trống, màu sắc tranh Đông Hồ rực rỡ mà
trong sáng với một số màu cơ bản là đỏ, xanh, vàng, nâu, đen. Do việc in
nét và in mảng hàng loạt nên số lượng tranh bán vào ngày tết cũng khá
lớn, hầu hết thỏa mãn được nhu cầu của nhân dân, nhất là vùng thôn quê.
Tranh Đông Hồ sản xuất tất cả thời gian trong năm, nhưng "nhộn nhịp" và
bận rộn nhất vẫn là thời điểm gần đến Tết. Thời gian này, các gia đình,
cơ sở làm tranh phải huy động nhiều nhân lực nhất, phục vụ cho khâu đóng
gói, vận chuyển, "phát hành" đi các phiên chợ Tết nông thôn từ miền
xuôi đến miền ngược xa xôi.
Dòng tranh Đông Hồ có nội dung rất
phong phú, chủ yếu đi sâu miêu tả tính chân thực cuộc sống đời thường
trong mối quan hệ giữa người với người, và giữa người với thiên nhiên.
Tính triết lý của tranh Đông Hồ rất sâu sắc mà vẫn toát lên sự vui tươi
dí dỏm - “Nói đó cho cay lòng đây” - như tranh Đánh ghen, Hứng dừa,
v.v.. Nhiều bức tranh nói lên nỗi niềm khát khao về hạnh phúc, ước
nguyện ấm no, giàu có yên lành. Trồng cây thì cây tốt, chăn nuôi thì
sinh sôi nảy nở và sâu xa hơn nữa là mong cho tình làng nghĩa xóm hòa
thuận, đoàn kết, an khang, thịnh vượng như tranh Đàn lợn, Đàn gà, Tứ quý
hoa lá, Chim muông,v.v.. Ngày xuân, các cụ già trong làng, trong phố
đến với nhau chúc tụng, uống rượu, bình tranh, họa thơ tranh thật lý
thú. Mỗi bức tranh của Đông Hồ đều có chỗ đứng riêng mà khó hòa đồng với
các dòng tranh khác là ở chỗ tính khái quát ước lệ, bố cục khá cao,
nhưng người xem ở các tầng lớp khác nhau đều hiểu và yêu thích. Đó chính
là cái đẹp mà sắc thái dân tộc bao trùm trong tranh, vì thế việc chơi
tranh Đông Hồ ngày Tết ở nước ta trước kia khá phổ biến. Gần đến ngày
Tết, người ta còn tặng quà cho nhau bằng tranh, theo nội dung phù hợp
với hoàn cảnh, tình cảm của người được trao tặng, ngoài việc để trang
trí trong ngày Xuân, còn là mong cho “mọi việc như ý” trong một năm mới
tốt lành. Nét đẹp văn hóa tinh thần vượt lên tính chất nghệ thuật thẩm
mỹ trong tranh, có lẽ chỉ người Việt mới có.
Ở đất Hà Thành, người dân cũng rất quen
thuộc, yếu mến tranh Hàng Trống - một dòng tranh mà cách đây hàng thế kỷ
đã đi vào tâm thức của người Hà Nội. Khác với vẻ đẹp chân chất, thôn
quê, bình dị của tranh làng Hồ, tranh Hàng Trống có một nét riêng, đó là
cách thức thể hiện mềm mại, uyển chuyển, duyên dáng, mượt mà. Cách đây
mấy thập kỷ trở về trước, nhiều người dân Hà Nội mỗi khi đi sắm Tết
thường không quên mua vài bức tranh Tứ bình, Nhị bình, Tố nữ... để về
trang trí đón Xuân. Phương pháp sản xuất in ấn tranh Hàng Trống cũng
khác với tranh làng Hồ. Tranh Đông Hồ in ấn từng khuôn nét, mảng màu thì
tranh Hàng Trống lại in nét đen trên giấy, sau đó là tô màu theo một
khuôn mẫu có trước. Người thợ căn cứ vào mẫu tranh để tô màu thật chính
xác, theo sắc độ đã định sẵn. Phương pháp tô màu đòi hỏi tay nghề rất
cao và rất thành thạo vì tranh mang tính tạo hình của hội họa khá rõ
nét, có đậm nhạt, sáng tối, làm người xem dễ hình dung về hình họa trong
tranh. Tuy nhiên, cũng có nhiều nghệ nhân tài hoa tự mình sáng tác và
hoàn chỉnh tác phẩm theo đơn đặt hàng mang tính đơn lẻ. Có thể nói dòng
tranh Hàng Trống là loại tranh bước gần tới tính hiện đại của nghệ thuật
tạo hình đương đại, nhưng vẫn giữ được tính dân tộc và rất trữ tình.
Tranh Hàng Trống có kích thước lớn hơn tranh Đông Hồ có lẽ cũng phản ánh
một hiện thực khách quan là "tranh nào thì nhà đó", bởi phần đông những
ngôi nhà của người dân Hà Thành đều có một không gian phòng khách độc
lập, rộng hơn so với nhà ở thôn quê thời trước, nên những vật dụng trang
trí, trong đó có tranh treo tường cũng phải có tỉ lệ tương ứng.
Khác với tranh Đông Hồ dân dã, mộc mạc
như cuộc sống bình dị của người dân thôn quê, tranh Hàng Trống đi sâu
vào ý nghĩa nhân quả của thần học “Có kiêng có lành, có thờ thì có
phúc”. Nghệ thuật và nội dung của tranh Hàng Trống xuất phát từ một quan
niệm triết học của tín ngưỡng tôn giáo và tâm linh (những bức tranh như
Đức Thánh Trần, Ngũ hổ, Lý Ngư vọng nguyệt,... phản ánh một tâm thức về
triết lý thành kính, tôn vinh, phù hộ cứu nhân độ thế, quan hệ âm
dương,v.v..).
Nghệ thuật tạo hình màu sắc đậm nhạt, ẩn hiện cũng rất phù hợp với triết lý của nội dung tranh.
Hai dòng tranh dân gian nói trên được
dùng vào ngày Tết Nguyên Đán khá phổ biến, nên người ta nói tranh Đông
Hồ, tranh Hàng Trống là tranh Tết không chỉ có ý nghĩa về truyền thống,
mà còn mang tính lịch sử xã hội về mặt triết học sâu sắc.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bác năm
1954, Đảng, Nhà nước ta khuyến khích nghệ thuật tạo hình phát triển,
trong đó có tranh dân gian, đồng thời tạo điều kiện mở đường cho các họa
sĩ nghiên cứu, khai thác chất liệu nghệ thuật tranh dân gian để sáng
tác tranh Tết mang tính dân tộc và tính hiện đại. Nhiều họa sĩ đương đại
đã khai thác chất liệu này đưa vào tranh để in ấn, xuất bản phục vụ
quảng đại nhân dân, được quần chúng ưa thích và trân trọng. Trong số
những hoạ sĩ có nhiều tranh Tết, tranh Xuân đẹp, người ta vẫn còn nhớ
đến tranh của Tạ Thúc Bình, Huy Toàn, Nguyễn Bích, Đỗ Đức. v.v.. Do kỹ
thuật in hiện đại nên màu sắc cũng khá phong phú, hấp dẫn với số lượng
tranh được in ra gấp nhiều lần tranh in thủ công của các làng nghề. Có
thể nói, tranh hiện đại được các hoạ sĩ khai thác chất liệu dân gian mà
các nghệ nhân sáng tạo từ nhiều thế kỷ qua, đã góp phần đáng kể vào việc
xây dựng và bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc.
Tranh dân gian trang trí trong ngày Tết
không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình đương thời, hoặc là vật
dụng trang trí, trưng bày đơn thuần trong những ngày Xuân, mà còn là một
hình thái tâm linh, tín ngưỡng của người dân lao động, với những ước
vọng trong sáng, tốt đẹp gửi gắm vào đó, tồn tại bao thế kỷ qua. Nó phản
ánh đời sống tinh thần khá phong phú kể cả nội dung và hình thức thể
hiện qua đường nét màu sắc mà các họa sĩ, các nghệ nhân trong nhân dân
sáng tạo ra. Tranh trang trí trong ngày Tết là những bức tranh có những
nội dung cầu phúc, cầu an, nói lên lòng khao khát cho một năm mới thiên
thời địa lợi nhân hòa, gia đình ấm no hạnh phúc. Nhớ lại trước đây, ở
bàn thờ gia tiên, bên cạnh những nghi thức xếp đặt như bát hương, câu
đối, đại tự thì những bức tranh Tết cũng được nhiều gia đình vùng Bắc Bộ
trang trí đối xứng như Tứ bình, Nhị bình, Tứ quý. Nhìn lên bàn thờ gia
tiên trong ngày Tết, người ta đều cảm nhận được sự ấm áp, thiêng liêng
mà những bức tranh dân gian góp một phần quan trọng.
Rất tiếc tranh dân gian của làng Hồ,
Hàng Trống đang đi vào lịch sử và hình dáng của nó hôm nay cũng đang dần
nhạt nhoà trong suy nghĩ và tâm thức của những thế hệ sinh ra và lớn
lên trong thời hội nhập. Tranh dân gian bây giờ không còn đến với người
dân trong ngày Tết Nguyên Đán như thuở nào đã "vang bóng một
thời"./.
Hoàng Hoa Mai