Chủ Nhật, 22/9/2024
Nghiên cứu trao đổi
Thứ Tư, 13/2/2013 10:28'(GMT+7)

Tranh Tết với ngày Xuân

Thuở xưa, mỗi khi Tết đến Xuân về, người Việt Nam đều có phong tục chơi tranh Tết. Tranh Tết là một trong những nghi thức trang trí cho những ngày Tết, phổ biến nhất là vùng nông thôn rộng lớn ở nước ta.

Vào những ngày cuối tháng Chạp âm lịch, người dân Việt Nam có truyền thống đi chợ Tết để mua sắm những nhu yếu phẩm và vật dụng phục vụ cho 3 ngày "ăn Tết" và "chơi Tết", trong đó, một thứ không thể thiếu là tranh Tết. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, từ những năm của thập kỷ tám mươi trở về trước, tranh Tết phổ biến nhất là tranh dân gian, trong đó có hai dòng tranh chủ yếu là tranh Đông Hồ (làng Hồ - Bắc Ninh) và tranh Hàng Trống (Hà Nội).

Tranh Đông Hồ là một loại tranh in mảng, nét, kích cỡ nhỏ hơn tranh Hàng Trống, màu sắc tranh Đông Hồ rực rỡ mà trong sáng với một số màu cơ bản là đỏ, xanh, vàng, nâu, đen. Do việc in nét và in mảng hàng loạt nên số lượng tranh bán vào ngày tết cũng khá lớn, hầu hết thỏa mãn được nhu cầu của nhân dân, nhất là vùng thôn quê. Tranh Đông Hồ sản xuất tất cả thời gian trong năm, nhưng "nhộn nhịp" và bận rộn nhất vẫn là thời điểm gần đến Tết. Thời gian này, các gia đình, cơ sở làm tranh phải huy động nhiều nhân lực nhất, phục vụ cho khâu đóng gói, vận chuyển, "phát hành" đi các phiên chợ Tết nông thôn từ miền xuôi đến miền ngược xa xôi.

  Dòng tranh Đông Hồ có nội dung rất phong phú, chủ yếu đi sâu miêu tả tính chân thực cuộc sống đời thường trong mối quan hệ giữa người với người, và giữa người với thiên nhiên. Tính triết lý của tranh Đông Hồ rất sâu sắc mà vẫn toát lên sự vui tươi dí dỏm - “Nói đó cho cay lòng đây” - như tranh Đánh ghen, Hứng dừa, v.v.. Nhiều bức tranh nói lên nỗi niềm khát khao về hạnh phúc, ước nguyện ấm no, giàu có yên lành. Trồng cây thì cây tốt, chăn nuôi thì sinh sôi nảy nở và sâu xa hơn nữa là mong cho tình làng nghĩa xóm hòa thuận, đoàn kết, an khang, thịnh vượng như tranh Đàn lợn, Đàn gà, Tứ quý hoa lá, Chim muông,v.v.. Ngày xuân, các cụ già trong làng, trong phố đến với nhau chúc tụng, uống rượu, bình tranh, họa thơ tranh thật lý thú. Mỗi bức tranh của Đông Hồ đều có chỗ đứng riêng mà khó hòa đồng với các dòng tranh khác là ở chỗ tính khái quát ước lệ, bố cục khá cao, nhưng người xem ở các tầng lớp khác nhau đều hiểu và yêu thích. Đó chính là cái đẹp mà sắc thái dân tộc bao trùm trong tranh, vì thế việc chơi tranh Đông Hồ ngày Tết ở nước ta trước kia khá phổ biến. Gần đến ngày Tết, người ta còn tặng quà cho nhau bằng tranh, theo nội dung phù hợp với hoàn cảnh, tình cảm của người được trao tặng, ngoài việc để trang trí trong ngày Xuân, còn là mong cho  “mọi việc như ý” trong một năm mới tốt lành. Nét đẹp văn hóa tinh thần vượt lên tính chất nghệ thuật thẩm mỹ trong tranh, có lẽ chỉ người Việt mới có.

Ở đất Hà Thành, người dân cũng rất quen thuộc, yếu mến tranh Hàng Trống - một dòng tranh mà cách đây hàng thế kỷ đã đi vào tâm thức của người Hà Nội. Khác với vẻ đẹp chân chất, thôn quê, bình dị của tranh làng Hồ, tranh Hàng Trống có một nét riêng, đó là cách thức thể hiện mềm mại, uyển chuyển, duyên dáng, mượt mà. Cách đây mấy thập kỷ trở về trước, nhiều người dân Hà Nội mỗi khi đi sắm Tết thường không quên mua vài bức tranh Tứ bình, Nhị bình, Tố nữ... để về trang trí đón Xuân. Phương pháp sản xuất in ấn tranh Hàng Trống cũng  khác với tranh làng Hồ. Tranh Đông Hồ in ấn từng khuôn nét, mảng màu thì tranh Hàng Trống lại in nét đen trên giấy, sau đó là tô màu theo một khuôn mẫu có trước. Người thợ căn cứ vào mẫu tranh để tô màu thật chính xác, theo sắc độ đã định sẵn. Phương pháp tô màu đòi hỏi tay nghề rất cao và rất thành thạo vì tranh mang tính tạo hình của hội họa khá rõ nét, có đậm nhạt, sáng tối, làm người xem dễ hình dung về hình họa trong tranh. Tuy nhiên, cũng có nhiều nghệ nhân tài hoa tự mình sáng tác và hoàn chỉnh tác phẩm theo đơn đặt hàng mang tính đơn lẻ. Có thể nói dòng tranh Hàng Trống là loại tranh bước gần tới tính hiện đại của nghệ thuật tạo hình đương đại, nhưng vẫn giữ được tính dân tộc và rất trữ tình. Tranh Hàng Trống có kích thước lớn hơn tranh Đông Hồ có lẽ cũng phản ánh một hiện thực khách quan là "tranh nào thì nhà đó", bởi phần đông những ngôi nhà của người dân Hà Thành đều có một không gian phòng khách độc lập, rộng hơn so với nhà ở thôn quê thời trước, nên những vật dụng trang trí, trong đó có  tranh treo tường cũng phải có tỉ lệ tương ứng.

Khác với tranh Đông Hồ dân dã, mộc mạc như cuộc sống bình dị của người dân thôn quê, tranh Hàng Trống đi sâu vào ý nghĩa nhân quả của thần học “Có kiêng có lành, có thờ thì có phúc”. Nghệ thuật và nội dung của tranh Hàng Trống xuất phát từ một quan niệm triết học của tín ngưỡng tôn giáo và tâm linh (những bức tranh như Đức Thánh Trần, Ngũ hổ, Lý Ngư vọng nguyệt,... phản ánh một tâm thức về triết lý thành kính, tôn vinh, phù hộ cứu nhân độ thế, quan hệ âm dương,v.v..).

Nghệ thuật tạo hình màu sắc đậm nhạt, ẩn hiện cũng rất phù hợp với triết lý của nội dung tranh.

Hai dòng tranh dân gian nói trên được dùng vào ngày Tết Nguyên Đán khá phổ biến, nên người ta nói tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống là tranh Tết không chỉ có ý nghĩa về truyền thống, mà còn mang tính lịch sử xã hội về mặt triết học sâu sắc.

Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bác năm 1954, Đảng, Nhà nước ta khuyến khích nghệ thuật tạo hình phát triển, trong đó có tranh dân gian, đồng thời tạo điều kiện mở đường cho các họa sĩ nghiên cứu, khai thác chất liệu nghệ thuật tranh dân gian để sáng tác tranh Tết mang tính dân tộc và tính hiện đại. Nhiều họa sĩ đương đại đã khai thác chất liệu này đưa vào tranh để in ấn, xuất bản phục vụ quảng đại nhân dân, được quần chúng ưa thích và trân trọng. Trong số những hoạ sĩ có nhiều tranh Tết, tranh Xuân đẹp, người ta vẫn còn nhớ đến tranh của Tạ Thúc Bình, Huy Toàn, Nguyễn Bích, Đỗ Đức. v.v.. Do kỹ thuật in hiện đại nên màu sắc cũng khá  phong phú, hấp dẫn với số lượng tranh được in ra gấp nhiều lần tranh in thủ công của các làng nghề. Có thể nói, tranh hiện đại được các hoạ sĩ khai thác chất liệu dân gian mà các nghệ nhân sáng tạo từ nhiều thế kỷ qua, đã góp phần đáng kể vào việc xây dựng và bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc.

Tranh dân gian trang trí trong ngày Tết không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình đương thời, hoặc là vật dụng trang trí, trưng bày đơn thuần trong những ngày Xuân, mà còn là một hình thái tâm linh, tín ngưỡng của người dân lao động, với những ước vọng trong sáng, tốt đẹp gửi gắm vào đó, tồn tại bao thế kỷ qua. Nó phản ánh đời sống tinh thần khá phong phú kể cả nội dung và hình thức thể hiện qua đường nét màu sắc mà các họa sĩ, các nghệ nhân trong nhân dân sáng tạo ra. Tranh trang trí trong ngày Tết là những bức tranh có những nội dung cầu phúc, cầu an, nói lên lòng khao khát cho một năm mới thiên thời địa lợi nhân hòa, gia đình ấm no hạnh phúc. Nhớ lại trước đây, ở bàn thờ gia tiên, bên cạnh những nghi thức xếp đặt như bát hương, câu đối, đại tự thì những bức tranh Tết cũng được nhiều gia đình vùng Bắc Bộ trang trí đối xứng như Tứ bình, Nhị bình, Tứ quý. Nhìn lên bàn thờ gia tiên trong ngày Tết, người ta đều cảm nhận được sự ấm áp, thiêng liêng mà những bức tranh dân gian góp một phần quan trọng.

Rất tiếc tranh dân gian của làng Hồ, Hàng Trống đang đi vào lịch sử và hình dáng của nó hôm nay cũng đang dần nhạt nhoà trong suy nghĩ và tâm thức của những thế hệ sinh ra và lớn lên trong thời hội nhập. Tranh dân gian bây giờ không còn đến với người dân trong ngày Tết Nguyên Đán như thuở nào đã "vang bóng một thời"./.         

            Hoàng Hoa Mai
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất