Chủ Nhật, 22/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Năm, 12/2/2009 15:43'(GMT+7)

Vì một đường biên giới pháp lý, công bằng, hòa bình, ổn định và phát triển

Tại một cột mốc ở tỉnh Lào Cai. Ảnh tư liệu

Tại một cột mốc ở tỉnh Lào Cai. Ảnh tư liệu

P.V: Đề nghị đồng chí cho biết tóm tắt quá trình đàm phán và triến khai công tác phân giới cắm mốc (PGCM) biên giới đất liền Việt - Trung và quan điểm chỉ đạo của Nhà nước ta về vấn đề này.

Đ/c Nguyễn Hồng Thao : Biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.400 km, đi qua 7 tỉnh biên giới Việt Nam và 2 tỉnh biên giới Trung Quốc. Biên giới này đã được hình thành qua quá trình lịch sử hàng ngàn năm và tồn tại một cách tương đối ổn định kể từ khi Việt Nam giành được độc lập sau nghìn năm Bắc thuộc. Tạp chí Geographer số 38 của Vụ Tình báo và Nghiên cứu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 29-10-1964 viết: “Sau hơn 10 thế kỷ bị đô hộ, năm 939 Bắc Kỳ phá vỡ ách đô hộ của Trung Quốc và thành lập Vương quốc Đại Cồ Việt ... nhà nước mới này đã bảo vệ được nền độc lập của mình ... một đường biên giới gần giống như ngày nay dường như đã tồn tại giữa hai quốc gia cách đây 10 thế kỷ“. Tuy nhiên, biên giới Việt – Trung mang tính khái niệm biên giới vùng, chưa phải là đường biên giới được phân giới cắm mốc, và được đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới chính xác.

Công ước 26-6-1887 và Công ước bổ sung 20-6-1895 giữa Chính phủ Pháp (nhân danh Việt Nam) và Triều đình Mãn Thanh Trung Quốc là các văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Cơ sở của hai Công ước này được dựa trên đường biên giới lịch sử vốn có đã tồn tại từ lâu đời giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, thể hiện thành quả lịch sử của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam. Đường biên giới đó đã được cụ thể hoá trên thực địa bằng một hệ thống mốc quốc giới đơn giản (341 mốc) từ Móng Cái đến biên giới Lào – Trung. Tuy nhiên các Công ước này cũng tồn tại nhiều hạn chế như lời văn Công ước mô tả đơn giản, không rõ ràng, nhiều chỗ không phù hợp với thực địa, bản đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh, khu vực không thể hiện như bãi Tục Lãm, Dậu Gót, nhiều khu vực chưa được PGCM hoặc cắm mốc quá thưa (có chỗ như Lai Châu, trên 40km mới có một cột mốc). Ngoài ra, qua hơn trăm năm, hệ thống mốc cũng bị hư hại, xê dịch, phá hủy do chiến tranh và thời gian. Các nguyên nhân này đã gây ra nhiều khó khăn trong quản lý, tồn tại một số điểm và khu vực biên giới không lớn, tại đó hai Bên có nhận thức khác nhau trong khi giải thích các Công ước.


Ngay sau khi giải phóng miền Bắc (1954), ngày 2-11-1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ưong Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai Bên tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 để lại và giải quyết mọi tranh chấp có thể thông qua thương lượng hòa bình. Bức thư nhấn mạnh: “Vấn đề quốc giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại do Chính phủ hai nước quyết định”. Tháng 4-1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam, tôn trọng hiện trạng đường biên giới lịch sử được Công ước 1887 và 1895 xác lập. Đây là thắng lợi quan trọng của quan hệ Trung - Việt trong bối cảnh nước Trung Quốc mới không chấp nhận các hiệp ước biên giới được coi là bất bình đẳng khi Trung Quốc phong kiến phải ký với các nước thực dân. Tuy nhiên do chiến tranh chống Mỹ, hai nước đã không có điều kiện hoàn thiện chất lượng đường biên giới.


Đàm phán giải quyết biên giới Việt - Trung đã kéo dài 35 năm, qua bốn giai đoạn. Đàm phán lần thứ nhất được bắt đầu tại Bắc Kinh ngày 15-8-1974. Cuộc đàm phán lần thứ hai bắt đầu từ 7-10-1977 đến tháng 6-1978. Đàm phán lần thứ ba được nối lại tại Hà Nội từ ngày 18-4-1979. Phía Việt Nam đã đưa ra đề nghị 3 điểm, trong đó điểm 3 nêu rõ:

“3. Việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa hai nước tuân theo nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại và đã được hoạch định bởi các Công ước 1887 và 1895 do Chính phủ Pháp và nhà Thanh ký, và đã được phía Việt Nam và phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận”.


Sau khi bình thường hoá quan hệ, đàm phán về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc lần thứ tư bắt đầu từ tháng 10-1992. Ngày 19-10-1993 hai Đoàn đàm phán Chính phủ đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam – Trung Quốc, phần nói về biên giới trên bộ quy định: “Hai Bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp ngày 26 tháng 6 năm 1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20 tháng 6 năm 1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định, đối chiếu xác định lại toàn bộ Đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc“.


Đàm phán lần thứ tư là cuộc đàm phán dài nhất (7 năm) trên nhiều diễn đàn (cấp Chính phủ - 6 vòng, cấp chuyên viên - 16 vòng, không kể các vòng cấp kỹ thuật...). Kết quả hai bên đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền ngày 30-12-1999.


Trong quá trình đàm phán, hai bên đã so sánh các Công ước Pháp - Thanh, văn bản pháp lý và bản đồ kèm theo. Gần 900km trên tổng chiều dài biên giới khoảng 1.350km (đo trên bộ bản đồ thể hiện đường biên giới chủ trương của hai bên) nhận thức của hai Bên trùng nhau, tức là không có tranh chấp. Khoảng 450km còn lại, tức là 33% tổng chiều dài đường biên giới, không có văn bản, hoặc văn bản và bản đồ chưa rõ ràng nên nhận thức hai Bên có khác nhau, được chia thành 289 khu vực (với tổng diện tích khoảng 231km2), trong đó: 74 khu vực khác nhau vì lý do kỹ thuật vẽ chồng lấn lên nhau, được gọi là khu vực A; 51 khu vực vì lý do kỹ thuật hai Bên đều chưa vẽ tới, gọi là khu vực B. Các khu vực loại A và B có diện tích không lớn, chỉ khoảng 5km2; 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C (rộng khoảng 227km2). Các cuộc đàm phán chủ yếu tập trung vào việc xử lý 164 khu vực C này. Hiệp ước 1999 đã ghi nhận kết quả, quy thuộc khoảng 114,9 km2 cho Việt Nam (gồm 112,3km2 thuộc khu vực C; 2,6km2 thuộc khu vực A và B) và khoảng 117,2 km2 thuộc Trung Quốc (trong đó có 114,8 km2 thuộc khu vực C; 2,4 km2 thuộc khu vực A và B). Đây là một kết quả công bằng, hai bên có thể chấp nhận và là cơ sở pháp lý quan trọng để hai bên tiến hành PGCM, tức chuyển đường biên giới từ lời văn Hiệp ước 1999 và bản đồ ra thực địa một cách chính xác, rõ ràng và đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới chính quy hiện đại. Đây là một công trình trọng điểm quốc gia, có khối lượng công việc lớn, nội dung liên quan đến nhiều chuyên ngành kỹ thuật, pháp lý, quản lý, bảo vệ... của các Bộ, ngành Trung ương, 7 tỉnh biên giới Việt – Trung và 2 tỉnh biên giới Trung-Việt.

Công việc được thực hiện trong thời gian dài và có tính song phương tại thực địa trong điều kiện khó khăn về địa hình (nhiều núi cao trên 1.000 – 2.000 m, cá biệt có chỗ đến 3.000m), cơ sở hạ tầng, giao thông kém phát triển và xa các khu dân cư, nhiều nơi không có đường đi lại, bom mìn, vật nổ nhiều, khí hậu phức tạp, một số khu vực dân cư đan xen nhau và dân cư biên giới có nhiều quan hệ huyết thống, dòng họ, qua lại với nhau từ lâu đời. Toàn tuyến biên giới được chia thành 12 đoạn giao cho 12 Nhóm PGCM phụ trách. Tháng 12-2001, hai Bên cắm cột mốc đầu tiên (mốc 1369) tại cửa khẩu Móng Cái - Đông Hưng. Từ tháng 10-2002, hai Bên đồng loạt triển khai PGCM trên toàn tuyến biên giới Việt – Trung. Lúc đầu theo hình thức cuốn chiếu từ Tây Sang Đông, sau đó là phương châm “dễ trước, khó sau”. Đến năm 2007, hai Bên đã xác định được gần 70% vị trí mốc giới. Các khu vực tồn đọng đều là các khu vực khó, nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời. Hai bên gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các mâu thuẫn giữa lời văn với bản đồ đính kèm Hiệp ước, giữa bản đồ với thực địa và sự không rõ ràng của một số từ ngữ trong Hiệp ước như “phía Nam”, “mé”, “xuống khe”… Tới năm 2008, còn lại 109 khu vực, phần lớn là các khu vực loại C (toàn tuyến có 164 khu vực loại C) với khoảng 600 mốc chưa xác định vị trí, chưa cắm). Để thực hiện quyết tâm của Lãnh đạo cấp cao hai nước, từ đầu năm 2008, Ủy ban liên hiệp (UBLH) và Đoàn đàm phán Chính phủ đã trực tiếp trao đổi giải quyết, giao kết quả cho các Nhóm PGCM thực hiện. Hai bên đã tiến hành 10 vòng đàm phán UBLH, 5 vòng đàm phán và gặp đặc biệt của 2 Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất 23 ngày liền, phiên họp dài nhất 31 giờ liền. Càng về cuối, đàm phán càng khó khăn, căng thẳng. Các lực lượng PGCM của ta đã có những nỗ lực hết sức to lớn cả trên bàn đàm phán và trên thực địa. Lãnh đạo Chính phủ đã sâu sát ra tận thực địa thị sát, chỉ đạo. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã ra Thác Bản Giốc tháng 10-2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ra tận Cửa sông Bắc Luân tháng 12-2008.


Trong quá trình đàm phán, các lực lượng PGCM đã tuân thủ đúng nguyên tắc chỉ đạo: PGCM phải căn cứ Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền Việt - Trung 1999 và bản đồ kèm theo, có tính đến lợi ích của nhau, biên giới đi qua tất cả các mốc cũ, dấu tích lịch sử, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng đến đời sống của cư dân biên giới.


P.V: Theo đồng chí, trong quá trình đàm phán, những điểm mốc nào phức tạp nhất và cả hai phía đã làm thế nào để đi đến thống nhất?


Đ/c Nguyễn Hồng Thao
: Như trên đã nói, PGCM chỉ là quá trình chuyển biên giới từ lời văn và bản đồ Hiệp ước 1999 ra thực địa. Quá trình này được tiến hành trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia và lợi ích của nhau, dựa trên căn cứ pháp lý thống nhất là Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền Việt - Trung 1999, nên hoàn toàn không có chuyện “mất đất” hay nhân nhượng nhau như Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng Đoàn đàm phán Chính phủ về biên giới lãnh thổ Vũ Dũng đã có bài trả lời phỏng vấn trên Vietnamnet ngày 2-1-2009. Hai bên đã tuân thủ những nguyên tắc chỉ đạo đã thống nhất ở trên đề giải quyết 109 khu vực tồn đọng trong năm 2008. Hai bên đã lần lượt chia các khu vực tồn đọng ra thành các gói: gói mốc cũ, gói các khu vực trong C, ngoài C, gói “ các cửa khẩu” Trà Lĩnh, Pò Peo, Tân Thanh, Hữu Nghị (đường bộ và đường sắt), Chi Ma, “gói sông suối”, gói các khu vực đặc thù” và “gói thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân”. Hai bên đã trao đổi một cách thẳng thắn để đi đến kết quả công bằng, tôn trọng lời văn và tinh thần của Hiệp ước 1999, nhất là tại các khu vực nhạy cảm đối với dư luận trong nước và quốc tế. Tại cửa khẩu Hữu Nghị, đường biên giới đi qua Km0, mốc 19 cũ của Pháp và điểm cách điểm nối ray 148m về phía Bắc. Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn,  thác chính và toàn bộ thác cao (thác phụ) cho Việt Nam. Hai Bên cũng nhất trí không xây dựng các công trình nhân tạo tại khu vực thác Bản Giốc để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái; đồng thời sẽ trao đổi về việc ký kết một Hiệp định Chính phủ về việc cùng hợp tác khai thác tài nguyên và tiềm năng du lịch của khu vực thác Bản Giốc.


Tại cửa sông Bắc Luân, biên giới quy thuộc  bãi Tục Lãm và 1/3 bãi Dậu Gót cho Việt Nam,  Tục Lãm và 2/3 bãi Dậu Gót cho Trung Quốc, và thiết lập khu giao thông thuỷ tự do cho nhân dân địa phương sử dụng luồng hai bên bãi Tục Lãm và Dậu Gót. Trong phạm vi này, tàu thuyền của nhân dân hai Bên chỉ có quyền đi lại (vô hại) mà không được quyền đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Hai Bên thỏa thuận, quy định này sẽ được ghi rõ trong Nghị định thư PGCM và bản đồ đính kèm. Hai Bên cùng nhất trí không xây dựng công trình nhân tạo tại khu vực bãi Tục Lãm, hòn Tài Xẹc, bãi Dậu Gót và sẽ ký kết một thỏa thuận cấp Chính phủ để chi tiết hóa việc quản lý khu vực này.


Tại khu vực Hoành Mô, đường biên giới đi giữa ngầm như từ trước đến nay chứ không theo trung tuyến dòng chảy qua cống mới do Trung Quốc xây dựng những năm 1960. Tại Cửa khẩu Ma Lù Thàng (Lai Châu), biên giới đi theo trung tuyến giữa hai bờ kè công trình xây dựng của hai bên. Khu vực mồ mả ở mốc 53 – 54 cũ (Cao Bằng) được giữ lại cho người dân Việt Nam mặc dù hai bên có nhận thức khác nhau về quy định của Hiệp ước 1999 về biên giới khu vực này đi theo chân núi. Khu vực rừng hồi người dân Trung Quốc trồng gần biên giới Quảng Ninh được bảo lưu cho phía Trung Quốc. Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới cắt ngang qua bản Ma Lỳ Sán (gồm 05 hộ, 35 khẩu thuộc tỉnh Hà Giang) và khu 13 nóc nhà của người dân Trung Quốc gần Lạng Sơn, hai bên áp dụng nguyên tắc điều chỉnh trên cơ sở cân bằng diện tích, không xáo trộn đời sống dân cư. Các chốt quân sự của Trung Quốc (38 chốt) trên biên giới đã được dỡ bỏ toàn bộ v.v….Nhiều khu vực tranh chấp hàng thế kỷ như Chi Ma, Trà Lĩnh, Sóc Giang… đã được giải quyết thoả đáng, đáp ứng nguyện vọng và mong mỏi của nhân dân hai nước.


P.V :  Những công việc gì cần làm tiếp theo sau khi hoàn tất đàm phán PGCM Việt – Trung?


Đ/c Nguyễn Hồng Thao
: Để đường biên giới thực sự đi vào cuộc sống, sau khi kết thúc công tác PGCM trên thực địa trong năm 2009 chúng ta phải khẩn trương, đồng thời triển khai một số công tác:

- Tuyên truyền, giải thích ý nghĩa, tầm quan trọng của việc hoàn thành công tác PGCM đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc và đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực xấu trong và ngoài nước.

 - Xây dựng Nghị định thư PGCM và bản đồ đính kèm;

- Thỏa thuận Hiệp định về quy chế quản lý biên giới;

- Thỏa thuận Hiệp định về quản lý cửa khẩu;

- Thỏa thuận Hiệp định về hợp tác khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc;

- Thỏa thuận chung về quy định chi tiết việc quản lý khu vực cửa sông Bắc Luân.

Những vấn đề nêu trên đều có khối lượng công việc rất lớn, đòi hỏi phải huy động lực lượng của nhiều Bộ, ngành, 7 tỉnh biên giới tham gia. Nghị định thư PGCM và bản đồ đính kèm cần được Quốc hội Việt Nam và Cơ quan Chính hiệp Trung Quốc phê chuẩn.


P.V : Đề nghị đồng chí cho biết việc kết thúc PGCM biên giới đất liền Việt – Trung có ý nghĩa như thế nào đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta trong giai đoạn hiện nay


Đ/c Nguyễn Hồng Thao:
Ý nghĩa công tác này đã được nói đến nhiều. Có thể tóm tắt như sau :

- Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước Việt Nam - Trung Quốc độc lập, có chủ quyền đã hoạch định rõ ràng đường biên giới giữa hai nước bằng các văn bản pháp lý và phân giới, đánh dấu rõ đường biên giới này bằng một hệ thống mốc giới thống nhất, đẹp, chính quy, hiện đại thay cho hệ thống mốc giới cũ do Pháp và nhà Thanh cắm trước đây; tạo cơ sở để các ngành chức năng tiến hành quản lý biên giới một cách hiệu quả. Nhân dân sống ở khu vực biên giới giữa hai nước sẽ dễ dàng nhận biết được đường biên giới, cùng nhau bảo vệ đường biên mốc giới; sẽ tránh được hiện tượng xâm canh, xâm cư do thiếu hiểu biết về đường biên giới; góp phần gìn giữ sự ổn định ở khu vực biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu hợp tác, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, văn hoá - xã hội giữa các tỉnh biên giới hai nước nói riêng và giữa Việt Nam với Trung Quốc nói chung…

- Kết thúc PGCM trên thực địa có một ý nghĩa lịch sử trọng đại và vô cùng to lớn; mở ra một trang mới trong quan hệ hai nước; đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử xây dựng đường biên giới Việt Nam và Trung Quốc thành một đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển giữa hai nước.

- Hoàn thành công tác PGCM trên thực địa biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích chung của nhân dân hai nước; góp phần tạo dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ “đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện“ mà Lãnh đạo cấp cao hai nước mới đạt được.     

- Cùng với việc ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25-12-2000; việc hoàn thành công tác PGCM biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc vào ngày 31-12-2008 đã góp phần giải quyết được hai trong ba vấn đề lớn do lịch sử để lại trong quan hệ Việt – Trung. Điều này chứng tỏ hai Đảng Cộng sản, hai Nhà nước Xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có đủ khả năng để giải quyết mọi bất đồng bằng biện pháp hòa bình; thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị và toàn diện giữa hai nước. Các thỏa thuận này mang một giá trị thực tiễn vô cùng quan trọng, thể hiện rõ quyết tâm của hai Đảng, hai Chính phủ, hai dân tộc trong việc giải quyết bằng thương lượng hoà bình tất cả các vấn đề biên giới lãnh thổ còn tồn đọng trong quan hệ hai nước. Đây là xu thế chung của thời đại và đóng góp quan trọng vào việc khẳng định các nguyên tắc chung của luật quốc tế: giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ bằng thương lượng hoà bình; không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp quốc tế.


Đạt được kết quả quan trọng này trước hết là nhờ ý chí phấn đấu và sự nỗ lực to lớn, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ của các lực lượng tham gia phân giới cắm mốc, đặc biệt là của Uỷ ban liên hợp PGCM. Kết quả này cũng là thành quả, công sức đóng góp chung của nhiều lực lượng từ Trung ương đến địa phương dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo PGCM các tỉnh; là sự phối hợp chỉ đạo, hỗ trợ nhiệt tình, có trách nhiệm của các cơ quan Trung ương như Uỷ Ban Biên giới Quốc gia, Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn; là sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp chính quyền địa phương huyện, xã biên giới, của lực lượng bộ đội biên phòng, đồng bào trong và ngoài nước... và đặc biệt là sự ủng hộ tích cực của đồng bào các dân tộc tại các khu vực biên giới Việt - Trung.

 

P.V: Xin cám ơn đồng chí./.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất