Thứ Hai, 25/11/2024
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống
Thứ Bảy, 21/4/2012 15:29'(GMT+7)

Xây dựng cơ sở hạ tầng nước ta từ góc nhìn văn hoá

 Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội là xây dựng nền móng của mô hình phát triển kinh tế thị trường và xã hội mới. Nước ta chuyển sang kinh tế thị trường đã 25 năm cũng là thời gian liên tục xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, góp phần không nhỏ tạo ra bộ mặt mới của nước ta.

Tuy vậy, nhìn vào quá trình hoạt động của kinh tế thị trường với thực trạng cơ sở hạ tầng hiện nay, đồng thời suy nghĩ về mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì thấy rõ vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như xây dựng cơ sở vật chất nói chung ở nước ta đang đứng trước hai khả năng: Hoặc là trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế-xã hội, hoặc là thành vật cản sự phát triển bền vững nếu vẫn xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng nói chung theo tư duy và phương pháp cũ. Chính vì vậy, vấn đề cơ sở hạ tầng trở thành một trong những vấn đề trung tâm Nghị quyết lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và nhiệm vụ của Nhà nước trong những năm trước mắt.

Thời gian qua, nhiều nhà khoa học và dư luận xã hội đã nói nhiều về lĩnh vực xây dựng từ quy hoạch, thiết kế, thi công, sử dụng và vấn đề đầu tư, nhưng khía cạnh văn hóa trong vấn đề này thì còn ít bàn tới (1), tuy nhiên đó lại là khía cạnh có tầm quan trọng rất lớn, bởi vì các công trình xây dựng không chỉ là nền móng của nền kinh tế và xã hội, mà còn là biểu hiện một nền văn minh của một thời đại. Lịch sử 300 năm của nền kinh tế thị trường không chỉ là quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn là quá trình phát triển nền văn minh công nghiệp - dấu ấn đậm nét của chủ nghĩa tư bản hiện đại về vai trò lịch sử và giới hạn của nó.

Phát triển kinh tế thị trường mà thiếu môi trường văn hóa, văn minh, chỉ phiến diện tăng trưởng của cải, thì kết cục là kinh tế và xã hội trở nên hoang dã và đi vào ngõ cụt. Đó là bài học thất bại của một số nước đã phát triển kinh tế thị trường những năm qua.

Đối với nước ta, muốn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề văn hóa trong tăng trưởng kinh tế phải là một động lực ngày càng lớn và là mục tiêu của phát triển. Vì vậy, xây dựng cơ sở hạ tầng nước ta từ góc nhìn văn hóa có thể thấy mấy vấn đề đáng chú ý sau đây:

1. Chúng ta xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế trong không gian và thời gian nào?

Xác định đúng thì mới tạo ra các tiêu chí về chất lượng và hiệu quả xây dựng và phát triển kinh tế.

Hiện nay đã đến thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, mọi người đều thấy rõ những xu thế phát triển mới ngày càng tác động mạnh mẽ đến các nước, thể hiện rõ nhất trong xu thế phát triển bền vững thúc đẩy sự phát triển đồng thuận giữa phát triển kinh tế với yêu cầu xã hội và bảo vệ môi trường. Xu thế này hoàn toàn khác với quá trình chỉ lo tăng trưởng của cải đem lại lợi ích chủ yếu cho chủ đầu tư, gây ra nhiều vấn nạn về xã hội và tàn phá môi trường ở tất cả các khâu từ xây dựng cho đến quá trình sản xuất và tiêu dùng. Chính hậu quả của chủ nghĩa thực dụng đã gây ra thảm họa nặng nề về môi trường, đã cảnh báo loài người phải thay đổi định hướng phát triển. Vì vậy, phát triển bền vững đang được tiêu chí hóa trong xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế-xã hội.

Đối với nước ta, vận dụng định hướng phát triển bền vững vào mọi hoạt động kinh tế-xã hội đang trở thành cấp bách, đòi hỏi một tầm nhìn sáng tỏ, để có tư duy và phương pháp mới trong hoạt động thực tiễn.

2. Thực chất của phát triển bền vững là vì cuộc sống của con người, của nhân dân ngày càng được cải thiện cả mức sống vật chất và nhu cầu văn hóa. Chính vì vậy, yêu cầu về mặt xã hội và bảo vệ môi trường tác động quyết định đến yêu cầu tăng trưởng kinh tế (2). Sự phát triển đồng thuận giữa ba mặt đó sẽ tạo ra phát triển nhanh. Tính đồng thuận càng cao thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh vì nó huy động được mọi nguồn lực trong nhân dân, và tạo ra quan hệ cùng có lợi cho mọi người trong phát triển kinh tế, khắc phục được tình trạng phân hóa giàu nghèo và bất công trong xã hội.

Những nước phát triển sau như nước ta, nếu sớm nắm lấy và vận dụng tốt định hướng phát triển bền vững, thì mới phù hợp với yêu cầu phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa theo con đường rút ngắn mà thời đại mới đang mang lại cho các dân tộc phát triển sau.

3. Yêu cầu phát triển bền vững cần phải xem xét vấn đề hiệu quả, chất lượng hội nhập quốc tế, từ góc nhìn văn hóa. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước, nhưng muốn đạt kết quả, thúc đẩy phát triển bền vững thì cần lưu ý ba vấn đề chủ yếu:

Thứ nhất, chúng ta hội nhập trong thời đại kinh tế tri thức lan tỏa toàn cầu. Sức cạnh tranh quốc gia chỉ có thể dựa trên tạo lập những điều kiện phát triển kinh tế tri thức từ cơ sở doanh nghiệp cho đến các lĩnh vực của nền kinh tế. Chất lượng nguồn nhân lực (do kết quả của sự phát triển khoa học và công nghệ, phát triển giáo dục và đào tạo phù hợp với nhu cầu kinh tế tri thức) là nhân tố chính tạo ra sức cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia.

Thứ hai, hiệu quả của hội nhập (về đầu tư nước ngoài, về thương mại) phụ thuộc vào trình độ quản lý nhà nước và doanh nghiệp biết thẩm định, lựa chọn những công nghệ tiên tiến của thế giới (không phải những công nghệ nước ta chưa có), biết học tập phương thức tổ chức, quản lý có hiệu quả bền vững. Nếu chúng ta chỉ chú ý số lượng vốn đầu tư, không có khả năng thẩm định và lựa chọn công nghệ và cách tổ chức quản lý thì nguy cơ sẽ rất lớn (thành bãi rác công nghệ, thảm họa về môi trường và kiệt quệ về tài nguyên quốc gia). Cho nên lúc này, hơn bao giờ hết, các nhà quản lý vĩ mô và vi mô phải sớm vượt lên chính mình, ngang tầm đòi hỏi của phát triển bền vững, vì cuộc sống của thế hệ hiện nay và thế hệ tương lai. Từ Đại hội lần IX, Đảng ta đã nêu ra một quan điểm rất đúng và tới nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự, đó là: "Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường". Chất lượng quản lý thể hiện ở khả năng thực hiện yêu cầu "đi đôi với". Đó là đòi hỏi của phát triển bền vững.

Thứ ba, vận dụng yêu cầu phát triển bền vững trong hội nhập quốc tế không những phải biết lựa chọn, tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, mà còn phải biết lựa chọn và tiếp thu những giá trị tốt về văn hóa và lối sống văn minh trong quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. Những giá trị và thành tựu văn hóa mà ta tiếp nhận nên là nhân tố nâng cao những giá trị tốt đẹp của Việt Nam, chứ không phải bắt chước máy móc. Mặt khác, phải ngăn ngừa những sản phẩm văn hóa xấu, lối sống thực dụng cá nhân của bên ngoài tác động vào bên trong.

Những giá trị văn hóa mới cần được thể hiện bắt đầu từ hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ một cách minh bạch, công khai sao cho giá trị văn hóa trở thành động lực trong xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội. Chỉ khi văn hóa gắn liền với pháp chế thì mới tạo ra môi trường lành mạnh, mới có thể khắc phục dần tệ quan liêu, tham nhũng trong các dự án đầu tư và tổ chức thực hiện.

4. Từ góc nhìn văn hóa có thể thấy vấn đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xã hội và phát triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững là sự bảo đảm ổn định và phát triển hệ thống chính trị.

Tình hình thế giới trong năm 2011 chỉ ra rằng: những thảm họa thiên nhiên như sóng thần ở Nhật Bản, lũ lụt ở Thái Lan, động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như những biến động về xã hội ở Bắc Phi và Trung Đông đã làm thay đổi cục diện chính trị nhiều nước. Đây là bài học đáng giá vì đã không sớm chuyển sang hướng phát triển bền vững.

5. Quá trình đổi mới của nước ta từ điểm xuất phát rất thấp (một nước nông nghiệp nghèo, lại trải qua sự tàn phá của chiến tranh), nên phải tập trung giải quyết vấn đề nghèo đói, nhưng đến nay, khách quan đòi hỏi phải kết hợp văn hóa với kinh tế, phải đưa văn hóa vào mọi hoạt động xây dựng mô hình phát triển mới. Nhìn lại thời kỳ từ năm 1975 đến nay có thể nhận ra vấn đề này thay đổi qua các giai đoạn:

Giai đoạn từ 1975 - 1985: đây là thời gian sau chiến tranh, chúng ta bắt tay vào xây dựng trong hòa bình, nhưng đặc trưng của giai đoạn này là "làm mà không biết", nên đã không phát triển được.

Giai đoạn từ 1986 đến nay: là giai đoạn tiến bộ hơn với tình trạng "làm rồi mới biết" nên chất lượng, hiệu quả thấp.

Giai đoạn từ nay trở đi: căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại mới và nước ta ở nấc thang phát triển cao hơn, nên khách quan đòi hỏi người quản lý và mọi người tiến vào giai đoạn "biết rồi mới làm", tức là nắm vững định hướng mới để vừa làm vừa sáng tạo.

Đây là đòi hỏi của thời đại hậu công nghiệp hay kinh tế tri thức. Khác với trước đây là học để làm theo những cái đã học được, ngày nay học để đi tới tư duy biện chứng và phương pháp hệ thống để không ngừng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn đang biến đổi nhanh./.

GS. TS. Trần Ngọc Hiên

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất