(TG) - Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục quán triệt, nắm vững, thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác đối ngoại. Đặc biệt, xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn là một trong những yếu tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong tình hình mới.
Lịch sử thế giới cho thấy, các nước lớn luôn có vai trò chi phối đến xu thế phát triển của chính trị và trật tự thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn; sự cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn đã kéo theo các dạng thức tập hợp lực lượng phức tạp, đan xen lợi ích, tạo nên các mối quan hệ đa tầng nấc, với quy mô và cấp độ khác nhau. Theo đó, các nước lớn vì lợi ích riêng bằng mọi cách để mở rộng quan hệ với các nước khác. Điều này tạo nên các mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, không chỉ giữa các nước lớn mà với cả các nước vừa và nhỏ.
Hiện nay, khi cạnh tranh đang là nhân tố nổi trội, cùng với sự “trỗi dậy” của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bảo hộ trong quan hệ quốc tế đặt ra thách thức buộc các nước phải chọn “bên”, tiềm ẩn nguy cơ rất lớn đối với độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Đối với Việt Nam, lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã cho thấy, chúng ta luôn coi trọng giữ ổn định bên trong và hòa hiếu, hữu nghị với các quốc gia, dân tộc khác để phát triển đất nước. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng khẳng định vai trò quan trọng của công tác đối ngoại - “mặt trận ngoại giao” trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất”. Đây là quan điểm cơ bản, nhất quán, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Đồng thời, đó cũng là tư tưởng, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo chiến lược để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại, mà trước hết là xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn trong tình hình mới.
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa - chiến lược quan trọng và có tiềm năng phát triển, là cầu nối châu Á với Đông Nam Á; nằm trên các tuyến đường hàng hải quan trọng kết nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương; là cửa ngõ giao thương với các nền kinh tế của khu vực và thế giới, nên luôn là tâm điểm chú ý của các nước lớn về nhiều phương diện, trong đó có quốc phòng, an ninh với cả khía cạnh tích cực và tiêu cực. Điều đó đặt ra cho công tác đối ngoại nói chung, việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn nói riêng những yêu cầu mới rất cao.
Trong bối cảnh đó, để xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn - yếu tố quan trọng giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong hội nhập quốc tế, hơn bao giờ hết đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tăng cường sự đoàn kết, thống nhất; nhận thức sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trong đó, cần tập trung thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, nắm vững quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, nhất là trong xử lý mối quan hệ với các nước lớn trong tình hình mới.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống nhất nhận thức, tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đối với công tác đối ngoại nói chung, xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn nói riêng để bảo vệ độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh nước ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Theo đó, phải coi trọng việc tuyên truyền, quán triệt để cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững đường lối, quan điểm đối ngoại của Đảng. Trọng tâm là quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về hội nhập quốc tế” và Nghị quyết 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013 của Quân ủy Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trong đó, cần quán triệt sâu sắc chủ trương chiến lược về đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, tạo cơ sở cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ chức thực hiện, đảm bảo đúng định hướng, đạt hiệu quả.
Các cấp, ngành, địa phương cần nắm vững nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế, nhất là với các nước lớn. Cùng với tuân thủ nguyên tắc bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, cần thấy rõ cả cơ hội và thách thức đan xen. Chủ động đề ra đối sách phù hợp để tận dụng cơ hội, hóa giải thách thức, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước. Theo đó, việc tuyên truyền cần được tiến hành đa dạng, phong phú, hiệu quả, bảo đảm tính toàn diện, thuyết phục, chân thực, khách quan. Điều quan trọng là phải thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, không để xảy ra sơ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, nhất là chống phá mối quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước khác.
Thực tế cho thấy, tuyên truyền về công tác đối ngoại, trong đó có mối quan hệ với các nước lớn là rất quan trọng, nhưng cũng rất nhạy cảm. Vì thế, cần phải bám sát sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương, có kế hoạch tuyên truyền cụ thể, chặt chẽ.
Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, kết hợp cả thông tin, tuyên truyền trong nước với thông tin đối ngoại và thông tin của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Cùng với đó, đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho toàn dân, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, ngành, địa phương, trong đó có nội dung về phát huy tính độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia khi ứng xử với các nước lớn trong quan hệ đối ngoại.
Hai là, thường xuyên nắm chắc tình hình có liên quan đến độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia, nhất là động thái của các nước lớn để có đối sách phù hợp trong quá trình quan hệ hợp tác.
Để xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, điều quan trọng trước hết là phải nắm chắc tình hình, nhận thức và đánh giá đúng đối tác, đối tượng có liên quan trực tiếp đến độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Theo đó, trong quá trình hội nhập, hợp tác, phát triển, nhất là với các nước lớn, các cấp, ngành, lực lượng cần nắm vững, vận dụng linh hoạt, hiệu quả quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng được xác định trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đó là, những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Đồng thời, cần phải thấy rõ tính chất đan xen, sự chuyển hóa linh hoạt giữa đối tác, đối tượng. Cùng một chủ thể nước lớn, có thể ở lĩnh vực này, thời điểm này là đối tác, nhưng trong lĩnh vực khác, thời điểm khác lại trở thành đối tượng. Nói cách khác, đối tác, đối tượng luôn vận động chuyển hóa lẫn nhau tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cụ thể nhất định. Do đó, muốn xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, trước hết phải thấu suốt vấn đề cơ bản nêu trên, nhằm chủ động chuyển hóa trong mọi tình huống, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình liên quan đến từng nước lớn, nhóm nước lớn, nhất là những diễn biến, động thái mới có lợi hoặc bất lợi đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc của nhân dân ta. Trên cơ sở đó, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, quyết sách, phương thức ứng xử đúng đắn, phù hợp trong quan hệ đối ngoại. Trong đời sống quốc tế hiện nay, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt, tác động mạnh mẽ đến khu vực và thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì thế, quá trình nghiên cứu, dự báo tình hình phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, phải đặt các nước lớn là tâm điểm của công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược.
Ba là, vận dụng phương thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh một cách linh hoạt, có đối sách phù hợp với từng nước lớn, quan hệ với nước này không làm ảnh hưởng tới quan hệ với nước khác.
Cần khẳng định rằng, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước lớn là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, quan hệ với các nước lớn bao giờ cũng tồn tại cả thời cơ và nguy cơ, thậm chí cả sự áp đặt, lệ thuộc nếu chúng ta không tỉnh táo, khôn khéo, xử lý thiếu đúng đắn, phù hợp sẽ dễ rơi vào thế bất lợi. Vấn đề quan trọng là, trong quan hệ với các nước lớn, chúng ta cần phải tự tin, tránh tự ti “nước nhỏ”, từ đó tích cực, chủ động, vận dụng linh hoạt phương thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh với những đối sách phù hợp. Coi đây là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động trong quá trình xử lý mối quan hệ với các nước lớn, nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước, gắn với giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh hội nhập. Theo đó, chúng ta cần quán triệt và kiên quyết thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng, giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, không lệ thuộc trong quan hệ với các nước, trong đó có các nước lớn. Đồng thời, chủ động đẩy mạnh hợp tác theo hướng thiện chí, minh bạch, tăng cường xây dựng lòng tin với các đối tác. Trong đó, cần khéo léo không để các nước hiểu lầm Việt Nam “bắt tay” với nước này, chống nước kia, gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hiện nay, quan hệ giữa nước ta với các nước lớn cơ bản theo chiều thuận, tuy nhiên, không vì thế mà chủ quan hoặc tự tin thái quá, có thể gây bất lợi cho ta. Theo đó, chúng ta cần phải rất tỉnh táo, hiểu đúng đối tác, thấy rõ mặt tích cực và tiêu cực của mối quan hệ với từng nước lớn; đặc biệt, phải chủ động dự liệu đầy đủ các tình huống. Do đó, hơn bao giờ hết càng phải thấu suốt quan điểm về đối tác, đối tượng của Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh trên từng vấn đề, sự việc cụ thể theo phương châm: tăng cường điểm đồng, giảm thiểu bất đồng; có đối sách linh hoạt, mềm dẻo để tránh đối đầu, căng thẳng hoặc lệ thuộc, trên cơ sở nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc.
Tiếp tục chính sách “cân bằng nước lớn” và xem đó là lựa chọn tất yếu trong duy trì quan hệ với các cường quốc. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, chính sách này dù là lựa chọn hàng đầu cũng cần có cách tiếp cận linh hoạt để đạt được lợi ích tối đa. Theo đó, cùng với chủ trương phát triển quan hệ với các nước lớn, chúng ta cần đẩy mạnh quan hệ với các nước đang phát triển với những cơ chế hợp tác, đối thoại, trao đổi phù hợp, tạo thế đan xen lợi ích với từng đối tác. Qua đó, tăng cường hợp tác và đấu tranh; trong đó, có thể tranh thủ quan hệ với nước lớn này để tác động quan hệ với nước lớn khác trong xử lý các tình huống cụ thể, tránh trở thành “con bài” để các nước lớn “mặc cả” lợi ích. Đây là cách ứng xử rất linh hoạt, sáng tạo, bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia.
Bốn là, chăm lo xây dựng thực lực quốc gia mạnh, làm cơ sở xử lý mối quan hệ với các nước lớn, nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”, nên “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Vì thế, chăm lo xây dựng thực lực của đất nước ngày càng vững mạnh đã, đang trở thành giải pháp quan trọng không chỉ tạo điều kiện thuận lợi để nước ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, mà còn trực tiếp góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước lớn. Thấu suốt vấn đề này, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước”, đảm bảo cho nước ta là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thực tiễn sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của Đảng, chúng ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thực lực của quốc gia ngày càng được tăng cường. Từ một quốc gia bị phong tỏa, cấm vận với một nền kinh tế kém phát triển, Việt Nam đã không ngừng phát triển và vươn mạnh ra thế giới. Đó là cơ sở, nền tảng rất quan trọng để khẳng định vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ với các nước lớn nói riêng.
Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 185 nước, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên chính thức của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực, như: thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO - năm 2007); Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (giai đoạn 2008 - 2009 và 2020 - 2021); Chủ tịch Hội nghị Giải trừ quân bị của Liên hợp quốc (năm 2009); Chủ tịch ASEAN (2010, 2020…).
Năm là, tăng cường hợp tác về quốc phòng, an ninh với các nước lớn.
Chúng ta khẳng định, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước, nhất là các nước lớn để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung theo phương châm “bốn không”, đó là: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đây là vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng, bởi một mặt, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin trong quan hệ quốc tế, góp phần duy trì môi trường hòa bình, hợp tác cùng phát triển, nâng cao vị thế, uy tín đất nước; mặt khác, tranh thủ mọi nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm từ các nước này để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Đồng thời, đó còn là một định hướng chiến lược, là kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Thấu suốt điều này, những năm qua, chúng ta đã thúc đẩy và mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng, an ninh với các quốc gia, trong đó có các nước lớn; đã chọn đúng khâu đột phá, với bước đi thích hợp, từng bước đưa công tác này đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực.
Đến nay, chúng ta đã có quan hệ quốc phòng ở các cấp độ khác nhau với trên 80 nước, trong đó có 5 nước lớn là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, qua đó tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, năm 2010, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất đã nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội ta trong con mắt của các cường quốc; tạo tiền đề quan trọng tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn. Theo đó, cần chủ động hoạch định chiến lược tổng thể cùng các giải pháp đồng bộ để chỉ đạo thống nhất các hoạt động hợp tác. Cần tập trung nghiên cứu xây dựng đề án quan hệ quốc phòng, an ninh bền vững với các nước lớn, có nền công nghiệp quốc phòng phát triển, mà trọng tâm là hợp tác trên các lĩnh vực: nghiên cứu chiến lược; hiện đại hóa Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; tăng cường khả năng phòng thủ đất nước và đối phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống mang tính toàn cầu. Đồng thời, cần tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn trong quá trình triển khai đề án đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế, trước hết là các cơ quan thuộc hệ thống Liên hợp quốc.
Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh song phương với các nước lớn một cách toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, nhất là triển khai hợp tác một cách thực chất, hiệu quả các thỏa thuận đã ký với từng nước lớn. Riêng lĩnh vực quốc phòng, quá trình hợp tác, cần kết hợp chặt chẽ các hoạt động thương mại, kinh tế, kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng với các hoạt động hợp tác quốc phòng khác thành một thể thống nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu hội nhập và đối ngoại. Trong đó, việc hợp tác mua sắm vũ khí, trang bị mới, hiện đại với các nước lớn là cần thiết, nhưng phải thận trọng và có tầm nhìn chiến lược, bảo đảm dự liệu đầy đủ các tình huống, kịch bản có thể xảy ra, nhất là trong hợp tác chuyển giao công nghệ, quy trình quản lý, sản xuất, bảo dưỡng… để không rơi vào thế bị động, bất ngờ và lệ thuộc vào đối tác. Đặc biệt, phải tỉnh táo, cân nhắc mọi khía cạnh và đặt mối quan hệ hợp tác đó trong bối cảnh đất nước có biến động, xảy ra chiến tranh. Cùng với đó, cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong hoạt động đối ngoại về các vấn đề, lĩnh vực có liên quan nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn.
Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
Ủy viên Trung ương Đảng,
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam