Mở đầu Di chúc, Người đưa ra lời dự báo có tính khẳng định, như một tất yếu lịch sử: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Là người suốt đời phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Bác từ biệt thế giới này, không có điều gì phải hối hận, “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Bác “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Và Bác nói lên điều mong muốn cuối cùng: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Nội dung Di chúc chỉ hơn 1000 từ mà chứa đựng “biết bao tình cảm, hoài bão và khí phách” (lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng), thể hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn dò trước lúc Bác đi xa.
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, người đã dẫn dắt Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Bác nêu lên trong Di chúc điều mà suốt đời Bác quan tâm:
“Trước hết nói về Đảng”. Bác căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Nhắc nhở Đảng phải chăm lo giáo dục và đào tạo thanh niên, Bác nói: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Với các tầng lớp nhân dân, Bác căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Tiên liệu cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều người, nhiều của, Bác đặc biệt dặn dò: “Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”
Bốn mươi năm qua, dù cách mạng nước ta phải trải qua muôn vàn thử thách, dù thế giới biễn đổi khôn lường, toàn Đảng và toàn dân ta vẫn đinh ninh lời thề mà đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, tuyên đọc khi vĩnh biệt Bác Hồ: quyết tâm thực hiện những điều Bác căn dặn trong Di chúc, “mang lá cờ bách chiến bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đích cuối cùng”.
Mùa xuân năm 1975, hơn 5 năm sau ngày Bác đi xa, đất nước ta đã sạch bóng quân thù. Giang sơn thu về một mối. Như Đảng ta nhận định: “Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời của sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Từ sau khi nước nhà thống nhất, cả nước cùng bắt tay nhau tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì đất nước “giàu mạnh”, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của dân tộc và của mỗi con người. Với trọng trách người lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam, qua sáu kỳ Đại hội, từ Đại hội IV đến Đại hội X, đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo, khai phá con đường đi lên, nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách đúng đắn nhất, hiệu quả nhất.
Năm 1976, Đại hội IV của Đảng hoạch định chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với mong muốn vượt qua thời kỳ quá độ trong một thời gian không dài.
Năm 1981, trước những khó khăn mới nảy sinh, cùng với những tín hiệu và nhân tố đầu tiên của đổi mới, Đại hội V của Đảng đã điều chỉnh bước đi ấy.Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của sự phát triển bằng việc đưa ra đường lối đổi mới toàn diện.
Năm 1991, Đại hội VII của Đảng công bố Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng hoạch định chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trong vòng vài ba thập niên, cho đến năm 2020, đưa nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp.
Năm 2001, Đại hội IX của Đảng, đại hội mở đầu thế kỷ XXI, đã đưa ra cái nhìn tổng quát về thế kỷ XX với những thành tựu rực rỡ mà cách mạng nước ta và dân tộc ta đã giành được, đồng thời hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Năm 2006, Đại hội X của Đảng lại đánh dấu cột mốc đáng ghi nhớ trên con đường đổi mới và phát triển đất nước, thông qua việc tổng kết 20 năm đổi mới và 15 năm thực hiện Cương lĩnh 1991; đề ra quyết sách thực hiện trước thời hạn mục tiêu chung của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010.
Thế là, gần 80 năm qua, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, của Bác Hồ, cách mạng Việt nam đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nươc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong đổi mới, nếu kể từ Đại hội VI trở đi, trong 23 năm, chúng ta cũng đã vượt qua biết bao ghềnh thác, giành được những thành tựu đáng tự hào, làm thay đổi cơ bản và toàn diện bộ mặt của đất nước; đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân; củng cố và tăng cường hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân; thực hiện hội nhập quốc tế, không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới; tăng lên nhiều sức mạnh tổng hợp của quốc gia, tạo ra thế và lực mới để tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. Điều quan trọng nữa là, thông qua thực tiễn lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Kỷ niệm 40 năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta có thể ngẩng cao đầu báo cáo với Bác về những thắng lợi và thành tựu giành được. Song chúng ta cũng xin nhận lỗi với Bác rằng chúng ta còn chưa làm được nhiều điều Bác dặn. Trong việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng quyền làm chủ của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm đáng kể, chúng ta còn vấp phải không ít sai lầm và khuyết điểm. Sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống, sự vi phạm các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt, sự lạm dụng quyền lực, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có những tác động tiêu cực đến việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiến hành trong nhiều năm qua, đặc biệt là Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được phát động từ sau Đại hội X đến nay, chính là để Đảng ta khắc phục yếu kém và khuyết điểm, khôi phục và phát huy những phẩm chất cao đẹp vốn có, thực hiện đúng Di chúc của Bác Hồ, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong lòng Đảng và nhân dân ta./.
Hà Đăng