Thứ Bảy, 23/11/2024
Tuyên truyền
Thứ Bảy, 25/7/2009 6:17'(GMT+7)

Tìm hiểu Hội nghị Trung ương 10

I. Giới thiệu tổng quát về Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (khoá X)

Thực hiện chương trình công tác toàn khóa, từ 29 đến 04/6/2009, Ban Chấp hành Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ 10. Đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu khai mạc và bế mạc quan trọng. Sau khi Hội nghị kết thúc, Ban Chấp hành Trung ương đã biểu quyết thông qua Nghị quyết Hội nghị và đã có Thông báo Kết quả Hội nghị. Đấy là những tài liệu rất quan trọng, thể hiện một cách cô đúc nhất tinh thần cơ bản của các nội dung Hội nghị Trung ương đã tập trung thảo luận và quyết nghị.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là thảo luận ban đầu, nhiều nội dung của các đề cương báo cáo sẽ tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hơn, hoàn thiện căn cứ vào thực tiễn từ nay đến Đại hội XI và sẽ được đưa ra xin ý kiến rộng rãi. Do vậy tài liệu thông báo nhanh lần này chưa thể đi vào các nội dung cụ thể, chỉ có thể đề cập những vấn đề đã rõ, đã chín.

1. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 tập trung thảo luận và thông qua các văn bản quan trọng

- Đề cương chi tiết Báo cáo tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991);

- Đề cương chi tiết Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020;

- Dự thảo của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng;

- Báo cáo đề nghị bổ sung một số thành viên Tiểu ban Chiến lược tham gia Tiểu ban Cương lĩnh; thành lập 3 tiểu ban: Tiểu ban nhân sự; Tiểu ban tổng kết thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội;

- Báo cáo những công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ Hội nghị Trung ương 9 đến Hội nghị Trung ương 10 (khoá X).

Trung ương còn nghiên cứu và thảo luận một số văn bản quan trọng khác.

2. Những điểm nổi bật của Hội nghị Trung ương 10

Từ những nội dung mà Hội nghị tập trung bàn, chúng ta có thể rút ra một số điểm nổi bật nhất qua kỳ họp Trung ương lần này:

Một là, Hội nghị Trung ương lần này tập trung giải quyết một khối lượng công việc rất lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm chuẩn bị bước đầu rất cơ bản cho Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng và đại hội đảng các cấp.

Từ nay đến Đại hội XI, Trung ương còn triển khai nhiều hội nghị để tiếp tục chuẩn bị, hoàn tất các công việc cần thiết. Tại Hội nghị lần thứ 10 này đã đưa ra và bước đầu quyết định những vấn đề rất cơ bản, rất hệ trọng về nội dung và tổ chức của Đại hội, tạo tiền đề và định hướng cho các hội nghị Trung ương tiếp theo.

Hai là, do tầm quan trọng của Hội nghị, các báo cáo, tờ trình.v.v. đã được chuẩn bị hết sức công phu, nghiêm túc, kỹ lưỡng:

- Về Tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991:

Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, ngày 04/02/2008, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành lập Tiểu ban Tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 và chuẩn bị Báo cáo chính trị trình Đại hội XI (Tiểu ban Cương lĩnh). Tiểu ban có 34 đồng chí; do đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh làm Trưởng Tiểu ban.

Ngày 22/02/2008, Tiểu ban đã họp phiên đầu tiên để xác định quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và kế hoạch triển khai việc tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh. Ngay sau khi Ban Bí thư ra quyết định thành lập Tổ Biên tập, Tiểu ban đã chỉ đạo Tổ Biên tập khẩn trương triển khai các công việc; đồng thời đề xuất để Ban Bí thư giao Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, một số cơ quan khoa học, chương trình, đề tài nghiên cứu về lý luận chính trị cung cấp tư liệu, kết quả nghiên cứu và giao cho một số cơ quan, cấp uỷ đảng ở Trung ương và địa phương tổng kết thực tiễn trên một số lĩnh vực phục vụ cho công tác tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh.

Giữa tháng 5/2008, Thường trực Tiểu ban đã thảo luận về một số vấn đề quan trọng có liên quan đến việc chuẩn bị Báo cáo tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, như: tên gọi, kết cấu, những yêu cầu và định hướng cơ bản của Báo cáo; phương pháp và tiến độ xây dựng Báo cáo. Trên cơ sở đó, đã chỉ đạo Tổ Biên tập chuẩn bị Dự thảo Đề cương chi tiết Báo cáo. Cuối tháng 8/2008, Tiểu ban đã họp phiên thứ hai để thảo luận Dự thảo đầu tiên Đề cương chi tiết Báo cáo do Tổ Biên tập trình.

Tại cuộc họp ngày 19/9/2008, Bộ Chính trị đã thảo luận lần thứ nhất về bản Dự thảo Đề cương chi tiết Báo cáo tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 do Tiểu ban trình. Bộ Chính trị nhận thấy bản Dự thảo Đề cương đã được chuẩn bị công phu, là kết quả bước đầu rất quan trọng để tiếp tục hoàn chỉnh trình Ban Chấp hành Trung ương; nhất trí với mục đích, yêu cầu, tư tưởng chỉ đạo việc tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh; nhất trí với kết cấu và nội dung chính của Đề cương; đồng thời nhấn mạnh và lưu ý thêm một số vấn đề để Tiểu ban tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung; hoàn chỉnh bản Dự thảo Đề cương.

Ngày 09 và 10/4/2009, Tiểu ban đã họp phiên thứ ba để thảo luận lần thứ hai nội dung Dự thảo Đề cương đã được tu chỉnh để trình Bộ Chính trị. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngày 24/4/2009, Tiểu ban đã gửi Dự thảo Đề cương và mời các đồng chí nguyên Lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước đến họp để xin ý kiến (ở Hà Nội 2 ngày và ở thành phố Hồ Chí Minh 1 ngày). Ngày 31/5/2009, Tiểu ban đã họp phiên thứ tư để thảo luận tiếp thu các ý kiến của các đồng chí nguyên Lãnh đạo để bổ sung bản Dự thảo Đề cương của Tiểu ban trình Bộ Chính trị.

Ngày 04/6/2009, Bộ Chính trị đã thảo luận lần thứ hai về Tờ trình và Dự thảo Đề cương để tiếp tục tu chỉnh trình Ban Chấp hành Trung ương. Trong quá trình tổng kết, chuẩn bị bản Dự thảo Đề cương, Tiểu ban đã chỉ đạo nghiên cứu, kế thừa các kết quả tổng kết 20 năm đổi mới; các kết quả nghiên cứu về bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 đã được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX cho ý kiến khi chuẩn bị Đại hội X. Thu thập và sử dụng các kết quả nghiên cứu mới của các cơ quan lý luận, các nhà khoa học (đặc biệt là hệ thống chương trình, đề tài khoa học của Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học xã hội Việt Nam...). Tập hợp ý kiến của nhiều nhà khoa học và chuyên gia thông qua 27 cuộc toạ đàm, hội thảo khoa học và mời cộng tác viên viết bài; phát huy trí tuệ, dân chủ thảo luận theo đúng tinh thần Bộ Chính trị chỉ đạo. Sử dụng kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của 12 cơ quan Trung ương và 18 tỉnh uỷ, thành uỷ. Tổ chức một số đoàn về làm việc với 13 Ban Thường vụ của các tỉnh uỷ, thành uỷ về các chuyên đề tổng kết do Ban Bí thư giao. Hội đồng Lý luận Trung ương và Văn phòng Trung ương Đảng đã tổng hợp 38 báo cáo chuyên đề thành 3 tập tài liệu tham khảo.

- Về Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020:

Tháng 2/2008, Tiểu Ban Chiến lược do Trung ương thành lập gồm 47 đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương; Tổ Biên tập do Ban Bí thư thành lập gồm 37 đồng chí là lãnh đạo các bộ, ngành và nhiều cơ quan nghiên cứu để thực hiện nhiệm vụ Trung ương giao về tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.

Tiểu ban Chiến lược đã tổng kết đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010; tham khảo kết quả các nghiên cứu mới của các cơ quan, các nhà khoa học trong và ngoài nước. Đã nghiên cứu kế thừa các Chiến lược trước đây; các văn kiện Đại hội Đảng từ đổi mới đến nay, nhất là Đại hội IX, Đại hội X và Báo cáo giữa nhiệm kỳ Đại hội X, các Nghị quyết Hội nghị Trung ương Khoá IX, Khoá X của Đảng và kết luận của Bộ Chính trị về các lĩnh vực có liên quan.

Tiểu ban Chiến lược đã giao cho các thành viên là lãnh đạo các bộ, ngành nghiên cứu chuyên sâu theo từng chuyên đề; tổ chức 19 cuộc hội thảo, tọa đàm, tiếp thu trên 150 lượt ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các chuyên gia trong, ngoài nước và các tổ chức quốc tế để xây dựng Đề cương. Tiểu ban đã 2 lần thảo luận tập thể và 3 lần gửi dự thảo Đề cương Chiến lược xin ý kiến trực tiếp của các thành viên Tiểu ban bằng văn bản, 2 lần họp lấy ý kiến các đồng chí nguyên là Phó Thủ tướng, một số Bộ trưởng và chuyên gia có kinh nghiệm trong xây dựng văn kiện qua các kỳ Đại hội Đảng.

Bộ Chính trị đã chỉ đạo Tiểu ban Chiến lược tổ chức Hội nghị xin ý kiến trực tiếp của các đồng chí nguyên là lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về Đề cương Chiến lược.

Qua thảo luận, đa số ý kiến cơ bản nhất trí với dự thảo Đề cương, cho rằng Đề cương được chuẩn bị công phu, kết cấu chặt chẽ, nội dung phong phú, phản ánh khá đầy đủ và sát đúng thực tế tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gần 10 năm qua và trình bày khá toàn diện về các vấn đề chủ yếu của Chiến lược 10 năm tới; trong đó có nhiều nội dung mới rất đáng hoan nghênh. Đồng thời, cũng có nhiều ý kiến góp ý, phân tích làm sâu sắc thêm và đề xuất bổ sung nhiều nội dung cụ thể vào Đề cương Chiến lược.

Ngày 15/6/2009, Bộ Chính trị đã thảo luận, cho ý kiến bước đầu để Tiểu ban Chiến lược hoàn chỉnh bản Đề cương Chiến lược này trình Hội nghị Trung ương.

Ba là, không khí thảo luận, trao đổi, tranh luận tại Hội nghị sôi nổi, liên tục, hết sức dân chủ, cởi mở và thẳng thắn; các ý kiến thảo luận đều rất tâm huyết, trách nhiệm cao; nhiều ý kiến sâu sắc, trí tuệ, tập trung nhiều vào các vấn đề trọng tâm. Những vấn đề chưa đủ rõ, còn ý kiến khác nhau, Trung ương thống nhất cho tiếp tục nghiên cứu và sẽ thảo luận tiếp trong các hội nghị Trung ương tới.

- Trong quá trình thảo luận Ðề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, có 134 lượt ý kiến phát biểu. Trung ương đánh giá cao sự chuẩn bị công phu, nghiêm túc, khoa học của Tiểu ban Cương lĩnh; căn bản nhất trí với nội dung của Đề cương, cho rằng Đề cương đã bám sát tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Ðại hội X và các nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị; quán triệt tinh thần và phương pháp khoa học, biện chứng, toàn diện, lịch sử - cụ thể và phát triển. Phát huy tự do tư tưởng, Trung ương đã thẳng thắn trao đổi, thảo luận làm rõ thêm nhiều vấn đề được đề cập trong Đề cương, và có những vấn đề mà Đề cương trình bày chưa đủ rõ cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận sâu hơn.

- Thảo luận về Đề cương chi tiết tổng kết thực hiện Chiến lược, đã có 128 lượt ý kiến phát biểu, đa số ý kiến tán thành với nội dung của Đề cương Chiến lược, cho rằng Đề cương được chuẩn bị công phu, chu đáo, có tầm khái quát, nội dung có nhiều điểm mới và được lấy ý kiến khá rộng rãi, nhất là ý kiến của các đồng chí nguyên là lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Nhiều ý kiến đã bổ sung, phân tích làm sâu sắc thêm một số nội dung của Đề cương Chiến lược.

- Quá trình thảo luận và cho ý kiến về định hướng chuẩn bị đại hội đảng các cấp, tiến tới Ðại hội toàn quốc của Ðảng, đã có 121 lượt ý kiến phát biểu, đóng góp; Trung ương đã tập trung phân tích làm rõ bối cảnh, mục tiêu, yêu cầu, chủ đề và các nội dung của Ðại hội; quyết định thành lập các Tiểu ban chuẩn bị cho Ðại hội, đồng thời nghiên cứu, trao đổi góp ý kiến vào dự thảo Chỉ thị của Bộ Chính trị về đại hội đảng các cấp sắp tới. Thời gian từ nay đến Ðại hội XI của Ðảng không còn nhiều, việc tiến hành chuẩn bị các nội dung của Ðại hội đòi hỏi phải rất khẩn trương, vì vậy, Trung ương cũng đã quyết định sớm lịch trình tổ chức đại hội các cấp, tiến tới Ðại hội toàn quốc của Ðảng.

II. Một số nội dung cơ bản của Hội nghị

A. Về định hướng chuẩn bị Đại hội XI của Đảng và đại hội đảng bộ các cấp; thành lập tiếp các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XI của Đảng

Theo Chương trình làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị Trung ương lần này ngoài việc thảo luận đề cương, phạm vi bổ sung, phát triển Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Hội nghị đã thảo luận định hướng chuẩn bị Đại hội XI và đại hội đảng các cấp, thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XI.

1. Về bối cảnh Đại hội XI

Đại hội XI của Đảng được tiến hành trong bối cảnh đất nước ta đã trải qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (l991 - 2011) và 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới (l986 - 2011). Đại hội sẽ tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010), 20 năm thực hiện Cương lĩnh; phát triển đường lối, bổ sung và phát triển Cương lĩnh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định Chiến lược phát triển trong 10 năm tới; phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm tiếp theo.

Từ nay đến Đại hội XI, tình hình còn nhiều diễn biến khó dự báo (nhất là diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới), nhưng sơ bộ có thể đề cập một cách khái quát đến mấy khía cạnh sau:

1.1. Về tình hình quốc tế

- Về chính trị: Tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường[1].

- Về kinh tế: Từ cuối năm 2007, nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng tài chính nặng nề, lan rộng ra nhiều nước, gây ra suy thoái kinh tế thế giới[2].

- Về xã hội: Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu, tác động trực tiếp đến nhiều nước, nhiều khả năng sẽ dẫn đến những bị động, lúng túng trong việc đối phó.

1.2. Về tình hình trong nước

Từ đầu nhiệm kỳ 2006 - 2010, Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã được triển khai thực hiện đồng bộ, đạt nhiều kết quả tích cực[3].

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế từ bên ngoài và do những khiếm khuyết của bản thân nền kinh tế cũng như hạn chế trong lãnh đạo, điều hành nên một số mục tiêu chủ yếu của Đại hội X (như mức tăng trưởng GDP, mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ phát triển dân số, chỉ tiêu về môi trường...) có khả năng không đạt được, chất lượng và hiệu quả nền kinh tế chuyển biến chậm, sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu trong các giai đoạn tiếp theo. Những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, du lịch sẽ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, thu ngân sách nhà nước, việc làm và đời sống của nhân dân. Những tác động về biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh, nhất là ở những địa bàn quan trọng, những đô thị lớn sẽ gây ra nhiều khó khăn hơn... Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nhìn chung có một số mặt tiến bộ, nhưng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn nhiều mặt yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa tạo được chuyển biến căn bản, những yếu kém về mặt xã hội, cộng thêm những khó khăn về việc làm, đời sống do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế làm cho tình hình tư tưởng vẫn còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta quyết liệt và tinh vi hơn. Vấn đề giữ vững an ninh, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đang đặt ra những yêu cầu mới.

- Nhìn chung, tình hình trong nước vẫn đan xen giữa 2 mặt thuận lợi và khó khăn. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần tận dụng tối đa thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức để thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tạo thuận lợi cho bước phát triển nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo.

2. Về yêu cầu của Đại hội XI và việc chuẩn bị các văn kiện, chuẩn bị Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI

2.1. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc ý nghĩa quan trọng của Đại hội XI, cũng như tình hình, bối cảnh quốc tế và trong nước Trung ương xác định yêu cầu chung của Đại hội XI và việc chuẩn bị các văn kiện phải trên tinh thần tranh thủ mặt thuận lợi, chủ động nắm bắt và vượt qua khó khăn, phấn đấu đạt các mục tiêu của nhiệm kỳ Đại hội XI, tạo thuận lợi để đạt các mục tiêu của các giai đoạn tiếp theo sẽ được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020); đồng thời bầu được Ban Chấp hành Trung ương khoá mới có đủ trí tuệ, phẩm chất để kế thừa, phát triển những kết quả đã đạt được trong các nhiệm kỳ trước, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI.

2.2. Từ yêu cầu chung nói trên, Trung ương thống nhất các tư tưởng chỉ đạo việc chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XII, nhất là trong Báo cáo Chính trị:

- Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ năm 2009 và 2010, cố gắng phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội X đã đề ra.

- Xác định chủ đề Đại hội XI và các vấn đề trọng tâm cần đề cập trong các văn kiện, nhất là trong Báo cáo Chính trị, cụ thể là:

+ Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, gắn với việc thực hiện có chiều sâu Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

+ Tiếp tục đổi mới toàn diện, tạo được chuyển biến về chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển bền vững; tạo thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 (theo Nghị quyết Đại hội X).

+ Chăm lo xây dựng, tạo chuyển biến đồng bộ để văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.

+ Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền quốc gia, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.

+ Mở rộng dân chủ, tăng cường sự đồng thuận xã hội, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đưa đất nước phát triển theo con đường và mục tiêu nêu trong Cương lĩnh, Chiến lược.

3. Về các văn kiện trình Đại hội XI

Thông thường, các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thảo luận và quyết định các vấn đề: Cương lĩnh; Báo cáo chính trị; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm trong nhiệm kỳ tới; Báo cáo xây dựng Đảng, bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương; Bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá mới.

Đại hội XI sắp tới có nhiều nội dung quan trọng cần được bàn thảo, quyết định; để tập trung và dành nhiều thời gian để đại biểu Đại hội thảo luận, theo tinh thần đổi mới, tại Hội nghị lần này, Bộ Chính trị báo cáo xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương và Trung ương đã biểu quyết thông qua các văn kiện trình Đại hội XI gồm:

Ngoài báo cáo về nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội các báo cáo:

- Báo cáo chính trị (trong đó bao gồm cả phần phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và công tác xây dựng Đảng; không trình Đại hội các báo cáo riêng về những vấn đề này).

- Báo cáo tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991).

- Báo cáo về Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020.

- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X).

- Báo cáo bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng (Ban Chấp hành Trung ương sẽ quyết định có hay không có báo cáo này tại Hội nghị Trung ương 11).

4. Về thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XI

Hội nghị Trung ương 4 (khoá X) đã quyết định thành lập 2 tiểu ban:

- Tiểu ban Cương lĩnh gồm 34 đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng. Tiểu ban này đồng thời thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo chính trị trình Đại hội XI của Đảng.

- Tiểu ban Chiến lược gồm 47 đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng. Tiểu ban này đồng thời thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo về kinh tế - xã hội 5 năm (2011 - 2015) trình Đại hội XI của Đảng.

Theo đề nghị của Bộ Chính trị và Trung ương đã nhất trí: về các văn kiện sẽ trình Đại hội XI, Tiểu ban Chiến lược sẽ không phải chuẩn bị Báo cáo về kinh tế - xã hội 5 năm nữa, còn Tiểu ban Cương lĩnh phải chuẩn bị Báo cáo chính trị, bao gồm cả phần kinh tế - xã hội 5 năm và phần xây dựng Đảng.

Xuất phát từ tình hình trên và nhân sự cụ thể của Tiểu ban Cương lĩnh, Tiểu ban Chiến lược hiện nay, theo đề nghị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã bổ sung một số đồng chí từ Tiểu ban Chiến lược tham gia Tiểu ban Cương lĩnh để thực hiện tốt nhiệm vụ soạn thảo Báo cáo chính trị; đồng thời thành lập mới 3 tiểu ban: Tiểu ban Tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng gồm 23 đồng chí (do đồng chí Hồ Đức Việt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương làm Trưởng tiểu ban); Tiểu ban Nhân sự gồm các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị (do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng tiểu ban); Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội XI gồm 20 đồng chí (do đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng tiểu ban).

5. Về thời gian Đại hội XI

Để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X) và bảo đảm cho việc triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII được tiến hành thuận lợi và đúng luật, Trung ương đã thảo luận và biểu quyết quyết định thời gian tổ chức Đại hội XI của Đảng vào nửa đầu tháng 01/2011.

6. Về lịch trình và định hướng tổ chức đại hội đảng bộ các cấp

Việc lựa chọn thời gian tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng sẽ tuỳ thuộc vào tiến trình chuẩn bị các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc và cần kết thúc trước ngày khai mạc Đại hội XI khoảng 2 - 3 tháng để có thời gian hoàn thiện văn kiện và chuẩn bị nhân sự Đại hội XI. Theo đó, lịch trình đại hội đảng bộ các cáp dự kiến như sau:

- Đại hội đảng bộ cấp cơ sở, từ đầu tháng 5 đến hết tháng 6/2010.

- Đại hội đảng bộ cấp huyện, từ đầu tháng 7 đến hết tháng 8/2010.

- Đại hội đảng bộ cấp tỉnh, từ đầu tháng 9 đến hết tháng 10/2010.

7. Về thí điểm thực hiện chủ trương đại hội đảng bộ cấp tỉnh và cấp huyện trực tiếp bầu bí thư cấp uỷ

Trung ương tán thành chủ trương thí điểm đại hội đảng bộ cấp tỉnh và cấp huyện trực tiếp bầu bí thư cấp uỷ (chọn 15% đến 20% số đảng bộ cấp tỉnh và cấp huyện làm thí điểm). Quy trình cụ thể về trực tiếp bầu bí thư cấp uỷ tại Đại hội sẽ được thể hiện trong Hướng dẫn về công tác nhân sự cấp uỷ tại đại hội đảng bộ các cấp.

B. Một số vấn đề cơ bản về Ðề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991)

1. Sự cần thiết bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991

- Cương lĩnh năm 1991 có giá trị lịch sử to lớn cả về lý luận, chính trị, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Ra đời trong bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nhiều Đảng Cộng sản bế tắc, mất phương hướng, các thế lực thù địch tấn công quyết liệt; ở trong nước, kinh tế - xã hội khủng hoảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động niềm tin. Cương lĩnh năm 1991 và các nghị quyết tiếp sau của Đảng theo tinh thần của Cương lĩnh đã định hướng cho toàn Đảng, toàn dân vững bước đi lên giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.

Từ sau Đại hội VII đến nay, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển nhận thức trên rất nhiều vấn đề của Cương lĩnh, từ những vấn đề chung về chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đến các vấn đề về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, hệ thống chính trị và Đảng. Đã từng bước hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề này.

Tuy nhiên, do tình hình thực tiễn thế giới và trong nước những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX và với nhận thức ở thời điểm đó, một số vấn đề trong Cương lĩnh năm 1991 đến nay cần được bổ sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn hơn 20 năm đổi mới của đất nước cũng đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn tới, đồng thời tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận vững chắc trong xã hội.

2. Một số định hướng trong quá trình bổ sung, phát triển Cương lĩnh

- Việc tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 là theo quyết định của Đại hội X. Đại hội X không đặt vấn đề sửa đổi Cương lĩnh 1991 với hàm nghĩa sửa đổi những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991. Việc bổ sung và phát triển phải trên cơ sở những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991; đồng thời, với tinh thần đổi mới, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại, cần thiết sửa chữa, bổ sung hoặc biên tập lại những nội dung, những đoạn trong Cương lĩnh đến nay không còn phù hợp; bổ sung những nhận thức mới đã được các Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (từ khoá VII đến khoá X) kết luận, những nội dung đã rõ, đã chín, được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh là đúng. Trong kế thừa có phát triển; để phát triển phải có những bổ sung mới; bổ sung và phát triển để làm cho Cương lĩnh ngày càng hoàn thiện thêm. Với tinh thần đó, Cương lĩnh được bổ sung, phát triển sẽ có nhiều nội dung mới quan trọng, là kết tinh những thành tựu lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới đầy sôi động theo tư tưởng định hướng, chỉ đạo của Cương lĩnh năm 1991.

- Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Đảng, mang tầm định hướng chiến lược về con đường phát triển của đất nước trong cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời trên nền định hướng chung đó, Cương lĩnh cũng cần nêu mục tiêu phấn đấu cho chặng đường một số năm tới (dự kiến đến khoảng giữa thế kỷ XXI) như cách của Cương lĩnh năm 1991, như vậy mới có ý nghĩa thực tiễn thiết thực và có sức động viên, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân một cách mạnh mẽ.

- Bản Đề cương chi tiết trình Trung ương lần này chưa phải là Cương lĩnh mà chỉ là Đề cương báo cáo tổng kết quá trình phát triển nhận thức và tình hình thực hiện (cả thành tựu và hạn chế) trên các lĩnh vực nêu trong Cương lĩnh năm 1991, làm cơ sở chuẩn bị chất liệu để phục vụ cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991. Những nội dung trong Đề cương mới chỉ là những ý tưởng đưa ra xin ý kiến Trung ương cho định hướng để cân nhắc, lựa chọn trong quá trình biên tập. Trên cơ sở ý kiến của Trung ương, Tiểu ban Cương lĩnh sẽ tiếp tục nghiên cứu, chuẩn bị để trình Trung ương tại Hội nghị Trung ương 11 bản dự thảo Cương lĩnh đã được bổ sung, phát triển.

3. Bước đầu đánh giá 20 năm thực hiện Cương lĩnh

Trung ương thảo luận và nhất trí cơ bản với những đánh giá bước đầu được xác định trong Đề cương:

- Trong việc tổ chức thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đề cương nhận định: Nhìn chung, các nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 đều đã được thể chế hoá và cụ thể hoá để chỉ đạo thực hiện có hiệu quả, mang lại nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết quả tổng quát nhất là: đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục vững bước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đó chứng tỏ tính đúng đắn và giá trị định hướng chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh năm 1991.

Tuy nhiên, nước ta mới bắt đầu ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp (GDP bình quân/người mới vượt ngưỡng 1.000 USD). Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn nhiều yếu kém; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Việc huy động và sử dụng các nguồn lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước chưa tương xứng với tiềm năng. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. (Từ nay đến Đại hội XI sẽ cập nhật tình hình để có đánh giá phù hợp).

- Về nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, Đề cương nêu rõ:

Những thành tựu to lớn của hơn 20 năm đổi mới bắt nguồn từ đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Sau hơn 20 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm; nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được tăng cường, nhân dân ta không ngừng phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù và sáng tạo.

Nguyên nhân của mặt hạn chế, yếu kém là: mô hình chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng còn mới mẻ, chưa có tiền lệ; công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển; việc tổ chức chỉ đạo thực hiện còn có những khuyết điểm.

Đề cương nêu 3 bài học lớn từ những thành công và hạn chế trong thực hiện Cương lĩnh năm 1991 là: bài học về giải quyết mối quan hệ giữa thực hiện những quan điểm có tính nguyên tắc, đúng đắn của Cương lĩnh và không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn; bài học về tính đồng bộ, hệ thống trong thực hiện Cương lĩnh; bài học về lựa chọn bước đi xác định trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn.

4. Kiến nghị bổ sung và phát triển Cương lĩnh

Nội dung Cương lĩnh 1991 rất phong phú; Đề cương báo cáo đề cập nhiều vấn đề, Trung ương tập trung thảo luận bước đầu về một số vấn đề nổi bật sau đây:

4.1. Về tên gọi của Cương lĩnh bổ sung, phát triển:

Việc xác định tên gọi của Cương lĩnh là rất quan trọng, nhưng cũng rất khó, vì đó là sự thể hiện bao quát nhất chủ đề tư tưởng, những định hướng nội dung cơ bản của Cương lĩnh. Khi chuẩn bị Cương lĩnh năm 1991 đã có rất nhiều ý kiến đề xuất với hơn 100 tên gọi khác nhau, sau hơn 3 năm nghiên cứu, thảo luận, Đại hội VII đã kết luận, quyết định tên gọi như hiện nay. Đại hội X không đặt vấn đề viết lại Cương lĩnh mà chỉ bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991, vì vậy giữ tên gọi như hiện nay là phù hợp với quyết định của Đại hội X và phù hợp với thực tiễn nước ta, khẳng định rõ Đảng và nhân dân ta tiếp tục kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Qua thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương nhất trí tên gọi Cương lĩnh là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (các chi tiết cụ thể như: bổ sung, phát triển, thời điểm ban hành… tiếp tục cân nhắc để diễn đạt cho phù hợp và xin ý kiến Trung ương ở kỳ họp sau).

4.2. Về quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm:

Đề cương bổ sung vào các bài học lớn của cách mạng Việt Nam một số ý về bài học kinh nghiệm của 20 năm đổi mới đã được các Đại hội khẳng định:

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; “dân là gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; giữ vững đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo, trên cơ sở kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; bám sát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan, giải quyết và xử lý các vấn đề theo phương pháp khoa học, biện chứng; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.

4.3. Tình hình thế giới và những đặc điểm, xu thế lớn của thời đại:

Đề cương lựa chọn, đề xuất, bổ sung vào Cương lĩnh một số nội dung đã được tổng kết, thể hiện trong các văn kiện gần đây của Đảng, nhất là các văn kiện Đại hội VIII IX, X. Tuy nhiên, do Cương lĩnh là nói về thời kỳ quá độ với thời gian dài, cho nên phần nhận định về bối cảnh quốc tế cần thể hiện một cách bao quát, chọn lọc, đầy đủ về các đặc điểm, các xu thế, các phong trào, cả mặt hợp tác và đấu tranh, dân tộc và giai cấp, tính phức tạp, phong phú, đa dạng, tính mâu thuẫn... trong tiến trình phát triển của nhân loại và các nhân tố dài hạn chi phối sự vận động của thế giới; đồng thời dự báo, nêu lên được cả thời cơ và nguy cơ, những thuận lợi và khó khăn, thách thức mới tác động vào nước ta.

4.4. Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Xoay quanh đặc trưng nói về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, Trung ương thảo luận và nhấn mạnh: Dân chủ là mục tiêu, là động lực, phản ánh bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là nguyện vọng thiết tha của Đảng và nhân dân ta. Qua thảo luận, nhiều ý kiến đề nghị đưa “dân chủ” lên trước “công bằng”, Trung ương nhất trí tạm diễn đạt mục tiêu chung là: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Các đặc trưng khác Đề cương thể hiện theo tinh thần Đại hội X.

4.5. Về những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc:

Trên cơ sở 7 phương hướng lớn đã nêu trong Cương lĩnh năm 1991, Đề cương dự kiến bổ sung, phát triển một số nội dung theo tinh thần kết luận của Đại hội X.

Trung ương nhất trí trong bổ sung, phát triển Cương lĩnh cần phải nhấn mạnh sự cần thiết nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ cơ bản, như: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định, phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

4.6. Về thời kỳ quá độ và mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ:

- Theo tinh thần của Cương lĩnh năm 1991, Trung ương nhất trí tiếp tục xác định mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là: xây dựng xong về cơ bản các cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng; về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, con người.

- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và thế giới, phân kỳ như thế nào là vấn đề rất khó và phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy chưa nên và chưa thể xác định các mốc cụ thể của toàn bộ con đường này. Tuy nhiên, căn cứ vào yêu cầu và tình hình thực tiễn ở nước ta, hầu hết các ý kiến đồng tình là cần xác định mục tiêu: Đến giữa thế kỷ XXI nước ta phải hoàn thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần nghiên cứu và làm rõ hơn các tiêu chí phản ánh mục tiêu này.

4.7. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

Về căn bản, Trung ương nhất trí, cần căn cứ tinh thần Đại hội IX và Đại hội X, khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trình bày rõ hơn trong Cương lĩnh bổ sung và phát triển những yếu tố bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường của nước ta, như: thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với hội nhập kinh tế quốc tế.

4.8. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:

Xác định mục tiêu ưu tiên hàng đầu là phát triển lực lượng sản xuất; đồng thời không ngừng xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Về cơ cấu kinh tế, căn cứ vào thực tế tình hình kinh tế nước ta và dự báo xu thế, triển vọng phát triển, dự kiến có thể không giữ thứ tự cơ cấu kinh tế “công - nông nghiệp - dịch vụ” như đã ghi trong Cương lĩnh năm 1991, mà xác định hướng xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có khả năng phát triển bền vững theo hướng “cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp”; đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

4.9. Về sở hữu và thành phần kinh tế:

Đa số Trung ương tán thành nội dung Đề cương ghi như Văn kiện Đại hội X: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.

Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến khác; Bộ Chính trị đề nghị, trên tinh thần Nghị quyết Đại hội X, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, làm rõ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.

4.10. Định hướng phát triển văn hoá và xây dựng con người:

- Đề cương đề xuất bổ sung, thể hiện rõ hơn trong Cương lĩnh vai trò, vị trí của văn hoá và định hướng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bổ sung, hoàn thiện mục tiêu, nội dung cơ bản của công tác tư tưởng, văn hoá; phát triển nhận thức về những định hướng lớn đối với văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản.

- Bổ sung những nhận thức mới về vai trò, vị trí của con người và chiến lược phát triển con người; phương hướng bồi dưỡng hình thành đầy đủ những đức tính của con người Việt Nam; những chủ trương, chính sách lớn nhằm phát triển con người toàn diện và phát huy tối đa tiềm năng con người.

4.11. Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo; khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường:

- Trung ương nhất trí với đề xuất của Đề cương, cần nói đậm hơn các nhận thức mới về vai trò, nhiệm vụ, định hướng phát triển và chính sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo; nhiệm vụ của giáo dục, đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

- Làm rõ hơn vai trò của khoa học và công nghệ; vai trò của Nhà nước và các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng trong phát triển khoa học, công nghệ; định hướng chính sách phát triển khoa học, công nghệ; vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ. Bổ sung, nhấn mạnh hơn về vấn đề bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, đối phó và thích ứng với biến đổi khí hậu.

4.12. Định hướng về quốc phòng - an ninh:

Trung ương tán thành, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển cần khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh quốc gia; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Trình bày các quan điểm cơ bản về xây dựng quốc phòng - an ninh.

Cần khẳng định rõ: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng - an ninh, đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; đồng thời tăng cường sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.

4.13. Định hướng về đối ngoại:

Cần nhấn mạnh tư tưởng: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; vì một nước Việt Nam giàu mạnh, là bạn, là đối tác tin cậy của các nước và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, đóng góp tích cực cho sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trình bày rõ các quan điểm cơ bản về quan hệ đối ngoại.

Trong thảo luận: nhiều ý kiến đề nghị đưa vào Cương lĩnh chủ trương: chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Có một số ý kiến đề nghị xác định trong Cương lĩnh là “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Trung ương thống nhất chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu theo tinh thần: trong quan hệ quốc tế, phải phát huy cao độ nội lực đất nước và tận dụng, phát huy thời cơ, sức mạnh của thời đại để phát triển, đồng thời phải bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc, giá trị truyền thống của dân tộc, về định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu thế thời đại.

4.14. Định hướng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

Bổ sung, thể hiện rõ thêm tư tưởng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Dân chủ gắn liền với trách nhiệm công dân, kỷ luật kỷ cương xã hội, và phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và thực hiện nghiêm pháp luật. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

4.15. Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân:

Nhấn mạnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đoàn viên, hội viên; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện giám sát, phản biện xã hội; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

4.16. Về Đảng Cộng sản Việt Nam và công tác xây dựng Đảng:

- Đề cương diễn đạt bản chất của Đảng như Văn kiện Đại hội X: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.

- Khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Cụ thể hoá, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với bối cảnh của đất nước và thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

- Nhấn mạnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải trong sạch và vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có đủ trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo; không phạm sai lầm về đường lối, gắn bó máu thịt với nhân dân, giữ vững truyền thống đoàn kết; có phương thức lãnh đạo khoa học, phù hợp.

C. Một số nội dung cơ bản trong Ðề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020 và ý kiến thảo luận của Trung ương

1. Về kết cấu của Báo cáo Đề cương Chiến lược

Đề cương Chiến lược gồm hai phần:

Phần thứ nhất: Tình hình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 trình bày 3 vấn đề lớn: (1) Những thành tựu và nguyên nhân; (2) Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân; (3) Đánh giá tổng quát và những bài học chủ yếu.

Phần thứ hai: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 trình bày 6 vấn đề lớn: (l) Bối cảnh; (2) Quan điểm phát triển; (3) Mục tiêu chiến lược và các khâu đột phá; (4) Định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng; (5) Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiệu lực hiệu quả, đủ sức quản lý điều hành thực hiện thắng lợi Chiến lược; (6) Tổ chức thực hiện Chiến lược.

Qua thảo luận, đa số ý kiến Trung ương nhất trí với phạm vi và kết cấu của Đề cương. Đây là Chiến lược của Đảng về lãnh đạo phát triển toàn diện các mặt kinh tế - xã hội của đất nước trong chặng đường 10 năm, cần thể hiện đầy đủ các nội dung có liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong Chiến lược không trình bày toàn diện các vấn đề nêu trên mà chỉ tập trung đề cập những nội dung liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, trọng tâm là xây dựng hệ thống hành chính nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu lực hiệu quả để thực hiện thắng lợi Chiến lược.

2. Về tổng kết tình hình thực hiện Chiến lược 2001 – 2010

- Trên cơ sở đánh giá những thành tựu đã đạt được, những hạn chế yếu kém và nguyên nhân, Đề cương Chiến lược nêu đánh giá tổng quát như sau:

Mười năm qua, chúng ta đã tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua nhiều thách thức khó khăn, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược đã được thực hiện[4]; diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản được hình thành; quan hệ sản xuất phù hợp hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều thành tựu. Chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đã tạo ra môi trường thuận lợi và những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Huy động và sử dụng các nguồn lực cho phát triển còn hạn chế. Đời sống xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp chưa được hình thành đầy đủ. Thể chế kinh tế thị trường, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn còn là điểm nghẽn của tăng trưởng. Khoảng cách phát triển với một số nước trong khu vực chậm được thu hẹp.

Phần đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược cả về thành tựu, yếu kém, nguyên nhân và đánh giá tổng quát như đã nêu trong Đề cương là căn cứ vào những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra trong Chiến lược 2001 - 2010; kế thừa các nội dung đánh giá tại Đại hội X, Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ Đại hội X, các kỳ họp Trung ương và kết luận của Bộ Chính trị; đồng thời có bổ sung, khái quát với tầm nhìn xuyên suốt thực tiễn phát triển của đất nước trong bối cảnh có nhiều biến động phức tạp 10 năm qua, nhất là mấy năm gần đây. Trung ương đã nhất trí về cơ bản với những đánh giá được trình bày trong Đề cương Chiến lược.

- Đề cương Chiến lược bước đầu đề xuất một số bài học kinh nghiệm qua 10 năm thực hiện Chiến lược 2010 – 2010. Thực tiễn 10 năm qua khẳng định con đường phát triển của đất nước ta là đúng đắn và có thể rút ra 5 bài học chủ yếu: (1) Bài học về phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước; (2) Bài học về kiên trì đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (3) Bài học về phải đặc biệt coi trọng tính bền vững của sự phát triển; (4) Bài học về giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước; (5) Bài học về sự gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

Đề cương Chiến lược đề cập 5 bài học nêu trên là được đúc kết từ thực tiễn hết sức phong phú, sôi động của gần 10 năm qua, vừa có tính kế thừa các bài học đã nêu trước đây, vừa có những nội dung mới có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực đối với sự chỉ đạo cho thời kỳ chiến lược tới, cũng không trùng lặp với quan điểm phát triển.

3. Về Chiến lược 2011 - 2020

Đề cương Chiến lược trình bày nhiều nội dung phong phú, nổi bật là một số vấn đề sau đây:

3.1. Về chủ đề của Chiến lược

Đề cương nêu chủ đề của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 là: Tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát huy mạnh mẽ dân chủ trong Đảng và trong xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra.

Đề cương Chiến lược nêu chủ đề như trên là bao quát được mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức chủ yếu để thực hiện Chiến lược; cách thể hiện này bảo đảm tính liên tục trong thực hiện đường lối và mục tiêu phát triển đã được đề ra từ Chiến lược trước, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ chiến lược tới và xu thế của thời đại.

3.2. Về bối cảnh thực hiện Chiến lược 2011 – 2020

Đất nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Trong những thập niên tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế chủ đạo. Nguy cơ chiến tranh thế giới khó có khả năng xảy ra nhưng các cuộc chiến tranh, xung đột về sắc tộc tôn giáo, lãnh thổ, tranh giành tài nguyên, khủng bố... có thể sẽ gia tăng, buộc các quốc gia phải đối phó và phối hợp hành động; đồng thời, cũng phải cùng nhau giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, đói nghèo, các đại dịch và các thảm họa thiên nhiên khác.

Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển cả về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện. Tự do hóa kinh tế và tài chính tiếp tục gia tăng, nhiều hình thức liên kết kinh tế mới xuất hiện. Kinh tế tri thức phát triển mạnh và theo đó, con người và tri thức đang trở thành lợi thế chủ yếu của mỗi quốc gia. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Các tập đoàn và công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi nhanh. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước đang trở thành phổ biến với các mặt tích cực, tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen nhau rất phức tạp. Sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới... Những đặc điểm đó sẽ mở ra những cơ hội và thách thức mới cho sự phát triển.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định[5]. Các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới, cùng nhau xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh; kinh tế; văn hóa - xã hội. Hợp tác ASEAN với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu.

Trong bối cảnh nêu trên, các quốc gia đều khẩn trương điều chỉnh chiến lược và chính sách phát triển của mình.

Ở trong nước, những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, những yếu kém của nền kinh tế chậm được khắc phục, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu sẽ còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá quyết liệt, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội, không thể xem thường Mặt khác, thiên tai, dịch bệnh đang diễn biến rất phức tạp, tình trạng biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng tác động ngày càng tiêu cực đến sản xuất, đời sống nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.

Bối cảnh mới đặt ra cho đất nước ta nhiều thời cơ thuận lợi và khó khăn thách thức đều lớn và đan xen nhau rất phức tạp. Phải tận dụng tốt các thời cơ thuận lợi, vượt qua các thách thức khó khăn, huy động và sử dụng tốt nhất mọi nguồn lực, kết hợp tốt sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, phấn đấu đạt được những bước phát triển mới, nhanh và bền vững, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước.

Trong quá trình thảo luận, đa số ý kiến nhất trí với nội dung nêu trên.

3.3. Về quan điểm phát triển

Xuất phát từ yêu cầu phát triển và trên cơ sở thực tế tình hình của đất nước và bối cảnh quốc tế, kế thừa những quan điểm của Chiến lược 2001 - 2010, Đề cương Chiến lược nêu 4 quan điểm phát triển có ý nghĩa chỉ đạo xuyên suốt như sau:

- Phát triển bền vững phải là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược và quá trình thực hiện Chiến lược

- Phát huy tối đa nhân tố con người, lấy con người làm trung tâm, tạo động lực cho sự phát triển

- Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất

- Giải quyết tốt mối quan hệ giũa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, phát huy mạnh mẽ nội lực và sức mạnh dân tộc, tranh thủ tối đa ngoại lực và sức mạnh thời đại

Qua thảo luận, hầu hết ý kiến nhất trí với các quan điểm phát triển nêu trên. Riêng về thành phần kinh tế (tại quan điểm 3), Đa số ý kiến tán thành với dự thảo Đề cương Chiến lược nêu: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Khuyến khích phát triển mạnh kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần và hợp tác xã để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sở hữu và kinh doanh; cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

3.4. Về các mục tiêu Chiến lược

Đề cương Chiến lược trình bày mục tiêu tổng quát và các mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hoá xã hội và môi trường.

Mục tiêu tổng quát được nêu như sau: Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững để đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại có trình độ phát triển trung bình[6]; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề để phát triển cao hơn trong các thời kỳ chiến lược sau; phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Trong quá trình thảo luận, đa số ý kiến nhất trí với nội dung này.

3.5. Về các đột phá Chiến 1ược

Để đạt được các mục tiêu Chiến lược, phải thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ giải pháp, trong đó, tập trung sức và có phương án khả thi thực hiện tốt các khâu đột phá sau: (l) Đột phá về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính để giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng tốt nhất mọi nguồn lực; (2) Đột phá về phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; (3) Đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn.

Đa số ý kiến nhất trí với những lựa chọn đột phá trên đây. Và cho rằng Đề cương Chiến lược nêu 3 đột phá như trên là phù hợp. Đây cũng là 3 điểm nghẽn trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay.

3.6. Về các định hướng phát triển chủ yếu

(l) Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế; (2) Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững; (3) Phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, (4) Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng các đô thị lớn, (5) Phát triển hài hoà, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới; (6) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; (7) Phát triển toàn diện văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế; (8) Phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân; (9) Phát triển nhanh giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển; (10) Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội; (11) Bảo vệ môi trường sinh thái, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; (12) Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Các định hướng trên đây tập trung nêu các phương hướng phát triển, các chính sách và giải pháp ở tầm chiến lược, có kế thừa Nghị quyết của Đại hội X, các Nghị quyết của Trung ương và kết luận của Bộ Chính trị Khoá IX, Khoá X về từng lĩnh vực; đồng thời, cũng có nhiều bổ sung, phát triển mới phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ chiến lược tới.

3.7. Về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiệu lực hiệu quả, đủ sức quản lý điều hành thực hiện thắng lợi Chiến lược

Đề cương Chiến lược trình bày 5 nội dung lớn: (1) Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường, (2) Đẩy mạnh cải cách lập pháp, tư pháp để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; (3) Kiện toàn hệ thống chính quyền các cấp trong sạch vững mạnh bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực hiệu quả, (4) Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; (5) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng hệ thống hành chính Nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu lực hiệu quả.

Về nội dung thứ 5, Đề cương Chiến lược nêu:

Để nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội của hệ thống chính quyền các cấp, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt là phải giải quyết tốt các mối quan hệ và sự gắn kết chặt chẽ, hiệu quả trên thực tế ba nội dung: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Đảng lãnh đạo toàn xã hội và là Đảng cầm quyền, trong điều kiện có Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước; sức mạnh và hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thể hiện chủ yếu ở sức mạnh, hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước, sự tin cậy và ủng hộ của nhân dân. Nhà nước mạnh, hiệu lực hiệu quả quản lý được tăng cường cũng chính là Đảng mạnh và Đảng mới thực hiện được tốt nhất sứ mạng lãnh đạo chính trị của mình; đồng thời, Đảng mạnh là điều kiện quyết định để Nhà nước mạnh. Thực tiễn đặt ra sự cần thiết thực hiện cơ chế người đứng đầu các cấp uỷ Đảng ở địa phương phải là người đứng đầu chính quyền cùng cấp.

Phải tăng cường dân chủ trong Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Đảng và xây dựng chính quyền. Trên cơ sở kết quả thí điểm, thực hiện từng bước vững chắc nhân dân bầu người đứng đầu chính quyền địa phương một cách thật sự dân chủ và thực hiện cơ chế Đại hội Đảng các cấp ở địa phương trực tiếp bầu Bí thư cấp uỷ. Bí thư cấp uỷ Đảng ứng cử đảm nhận chức danh đứng đầu cơ quan chính quyền cùng cấp; nếu không được nhân dân tín nhiệm thì không tiếp tục làm Bí thư. Đây là thiết chế cần thiết để phát huy dân chủ trực tiếp trong việc lựa chọn người đứng đầu tổ chức Đảng và chính quyền địa phương, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền; tăng cường vai trò lãnh đạo và hiệu lực cầm quyền của Đảng; tập trung quyền quyết định trong tổ chức thực hiện và tạo cơ sở pháp lý gắn quyền hạn với trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ Đảng, cũng là người đứng đầu chính quyền về các quyết định của mình. Đây cũng là cơ sở pháp lý để bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với cán bộ chủ chốt của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp. Qua đây góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, tăng cường công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, làm tăng niềm tin và sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Xây dựng cơ chế để bảo đảm sự lãnh đạo tập thể của cấp uỷ Đảng và ngăn ngừa sự độc đoán, chuyên quyền của người đứng đầu.

Trên đây là những nội dung cơ bản của Hội nghị Trung ương lần thứ X.

Từ nay đến Đại hội XI còn hơn một năm nữa. Quá trình chuẩn bị các văn kiện đại hội cần được gắn liền với quá trình phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, thông qua thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện một cách có căn cứ các văn kiện.

Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy thành tựu, ưu điểm đã đạt được trong hơn nửa đầu nhiệm kỳ khoá X; kết quả phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng qua, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, tích cực chuẩn bị cho Đại hội XI của Đảng và đại hội đảng các cấp, đưa đất nước tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới, tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

PHP

[1] Cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ; hoà bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn (như nhận định của Đại hội X) nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố quốc tế, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ giữa một số nước trong khu vực, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp. Cùng với tăng cường hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu, thoả hiệp trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích chiến lược, cạnh tranh giữa các nước lớn về vị thế và ảnh hưởng, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường... sẽ gay gắt hơn; vị trí, vai trò của Mỹ bị suy giảm so với trước; xu hướng hình thành thế giới đa cực ngày càng biểu hiện rõ hơn trước.

[2] Tình hình kinh tế thế giới có thể diễn biến theo 2 khả năng: (l) Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới sớm được khắc phục, nhưng ảnh hưởng còn kéo dài thêm một số năm. (2) Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế vẫn tiếp diễn kéo dài, gây ảnh hưởng nặng nề đến nhiều quốc gia trên thế giới.

[3] Công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được đẩy mạnh, có chuyển biến tích cực. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố, phát huy. Sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực; nền kinh tế cơ bản ổn định, lạm phát và suy giảm kinh tế bước đầu được kiềm chế, duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý, an sinh xã hội được quan tâm giải quyết, chăm lo nhiều hơn. Đã đạt hoặc gần đạt được nhiều chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội X đề ra. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững. Quốc phòng, an ninh được tăng cường.

[4]Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2001 - 2010 dự kiến đạt khoảng 7,2%/năm; tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt bình quân trên 7%/năm; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt khoảng 4%; đến năm 2010: tỷ lệ lao động được đào tạo nghề dự kiến đạt khoảng 40%.; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 20%; tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi; tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 43,2 triệu tấn;...

[5] Như: tranh giành ảnh hưởng và quyền lực, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên...

[6] Nước công nghiệp có trình độ trung bình được xác đinh theo các tiêu chí sau: (l) GDP bình quân đầu người đạt từ 3000 - 5000 đô la Mỹ/đầu người (năm 2020, dự kiến Việt Nam đạt trên 3000 đô la Mỹ); (2) Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ 10 – 20% (Việt Nam dự kiến là 15%); (3) Tỷ trọng công nghiệp chế tạo trong giá trị sản xuất công nghiệp 40 - 50% (Việt Nam dự kiến là 40%); (4) Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội từ 30 - 45% (Việt Nam dự kiến khoảng 30%); (5) Tỷ lệ sử dụng Internet trên dân số 25% (Việt Nam dự kiến trên 30%); (6) Số bác sỹ trên 1 vạn dân 8 - 10 (Việt Nam dự kiến là 9); (7) Tuổi thọ trung bình trên 70 tuổi (Việt Nam dự kiến trên 75 tuổi); (8) Chỉ số phát triển con người 0,502 - 0,798 (Việt Nam dự kiến là trên 0,750); (9) Tỷ lệ che phủ rừng 42% (Việt Nam dự kiến là 45%); (10) Tỷ lệ đô thị hóa từ 50 - 60% (Việt Nam dự kiến trên 40%); (l1) Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch 90 – 100% (Việt Nam dự kiến là 100% dân số đô thị và 85% dân số nông thôn), (12) Hạ tầng kinh tế, xã hội tương đối đồng bộ và hiện đại.

Các tiêu chí trên được Tiểu ban Chiến lược đề xuất trên cơ sở tham khảo cách phân loại nước công nghiệp của các chuyên gia quốc tế (WB, các tổ chức quốc tế, một số nước khác) và số liệu của 20 nước trong giai đoạn công nghiệp hóa.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất