Thứ Bảy, 21/9/2024
Tuyên truyền
Thứ Bảy, 18/7/2009 6:17'(GMT+7)

Tìm hiểu Hội nghị Trung ương 10 (phần 3)

B. Một số vấn đề cơ bản về Ðề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991)

1. Sự cần thiết bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991

- Cương lĩnh năm 1991 có giá trị lịch sử to lớn cả về lý luận, chính trị, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Ra đời trong bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nhiều Đảng Cộng sản bế tắc, mất phương hướng, các thế lực thù địch tấn công quyết liệt; ở trong nước, kinh tế - xã hội khủng hoảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động niềm tin. Cương lĩnh năm 1991 và các nghị quyết tiếp sau của Đảng theo tinh thần của Cương lĩnh đã định hướng cho toàn Đảng, toàn dân vững bước đi lên giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.

Từ sau Đại hội VII đến nay, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển nhận thức trên rất nhiều vấn đề của Cương lĩnh, từ những vấn đề chung về chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đến các vấn đề về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, hệ thống chính trị và Đảng. Đã từng bước hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề này.

Tuy nhiên, do tình hình thực tiễn thế giới và trong nước những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX và với nhận thức ở thời điểm đó, một số vấn đề trong Cương lĩnh năm 1991 đến nay cần được bổ sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn hơn 20 năm đổi mới của đất nước cũng đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn tới, đồng thời tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận vững chắc trong xã hội.

2. Một số định hướng trong quá trình bổ sung, phát triển Cương lĩnh

- Việc tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991 là theo quyết định của Đại hội X. Đại hội X không đặt vấn đề sửa đổi Cương lĩnh 1991 với hàm nghĩa sửa đổi những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991. Việc bổ sung và phát triển phải trên cơ sở những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991; đồng thời, với tinh thần đổi mới, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại, cần thiết sửa chữa, bổ sung hoặc biên tập lại những nội dung, những đoạn trong Cương lĩnh đến nay không còn phù hợp; bổ sung những nhận thức mới đã được các Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (từ khoá VII đến khoá X) kết luận, những nội dung đã rõ, đã chín, được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh là đúng. Trong kế thừa có phát triển; để phát triển phải có những bổ sung mới; bổ sung và phát triển để làm cho Cương lĩnh ngày càng hoàn thiện thêm. Với tinh thần đó, Cương lĩnh được bổ sung, phát triển sẽ có nhiều nội dung mới quan trọng, là kết tinh những thành tựu lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới đầy sôi động theo tư tưởng định hướng, chỉ đạo của Cương lĩnh năm 1991.

- Cương lĩnh là tuyên ngôn chính trị của Đảng, mang tầm định hướng chiến lược về con đường phát triển của đất nước trong cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời trên nền định hướng chung đó, Cương lĩnh cũng cần nêu mục tiêu phấn đấu cho chặng đường một số năm tới (dự kiến đến khoảng giữa thế kỷ XXI) như cách của Cương lĩnh năm 1991, như vậy mới có ý nghĩa thực tiễn thiết thực và có sức động viên, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân một cách mạnh mẽ.

- Bản Đề cương chi tiết trình Trung ương lần này chưa phải là Cương lĩnh mà chỉ là Đề cương báo cáo tổng kết quá trình phát triển nhận thức và tình hình thực hiện (cả thành tựu và hạn chế) trên các lĩnh vực nêu trong Cương lĩnh năm 1991, làm cơ sở chuẩn bị chất liệu để phục vụ cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991. Những nội dung trong Đề cương mới chỉ là những ý tưởng đưa ra xin ý kiến Trung ương cho định hướng để cân nhắc, lựa chọn trong quá trình biên tập. Trên cơ sở ý kiến của Trung ương, Tiểu ban Cương lĩnh sẽ tiếp tục nghiên cứu, chuẩn bị để trình Trung ương tại Hội nghị Trung ương 11 bản dự thảo Cương lĩnh đã được bổ sung, phát triển.

3. Bước đầu đánh giá 20 năm thực hiện Cương lĩnh

Trung ương thảo luận và nhất trí cơ bản với những đánh giá bước đầu được xác định trong Đề cương:

- Trong việc tổ chức thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đề cương nhận định: Nhìn chung, các nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 đều đã được thể chế hoá và cụ thể hoá để chỉ đạo thực hiện có hiệu quả, mang lại nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết quả tổng quát nhất là: đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục vững bước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đó chứng tỏ tính đúng đắn và giá trị định hướng chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh năm 1991.

Tuy nhiên, nước ta mới bắt đầu ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp (GDP bình quân/người mới vượt ngưỡng 1.000 USD). Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn nhiều yếu kém; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Việc huy động và sử dụng các nguồn lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước chưa tương xứng với tiềm năng. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. (Từ nay đến Đại hội XI sẽ cập nhật tình hình để có đánh giá phù hợp).

- Về nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, Đề cương nêu rõ:

Những thành tựu to lớn của hơn 20 năm đổi mới bắt nguồn từ đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Sau hơn 20 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm; nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được tăng cường, nhân dân ta không ngừng phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù và sáng tạo.

Nguyên nhân của mặt hạn chế, yếu kém là: mô hình chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng còn mới mẻ, chưa có tiền lệ; công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển; việc tổ chức chỉ đạo thực hiện còn có những khuyết điểm.

Đề cương nêu 3 bài học lớn từ những thành công và hạn chế trong thực hiện Cương lĩnh năm 1991 là: bài học về giải quyết mối quan hệ giữa thực hiện những quan điểm có tính nguyên tắc, đúng đắn của Cương lĩnh và không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn; bài học về tính đồng bộ, hệ thống trong thực hiện Cương lĩnh; bài học về lựa chọn bước đi xác định trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn.

4. Kiến nghị bổ sung và phát triển Cương lĩnh

Nội dung Cương lĩnh 1991 rất phong phú; Đề cương báo cáo đề cập nhiều vấn đề, Trung ương tập trung thảo luận bước đầu về một số vấn đề nổi bật sau đây:

4.1. Về tên gọi của Cương lĩnh bổ sung, phát triển:

Việc xác định tên gọi của Cương lĩnh là rất quan trọng, nhưng cũng rất khó, vì đó là sự thể hiện bao quát nhất chủ đề tư tưởng, những định hướng nội dung cơ bản của Cương lĩnh. Khi chuẩn bị Cương lĩnh năm 1991 đã có rất nhiều ý kiến đề xuất với hơn 100 tên gọi khác nhau, sau hơn 3 năm nghiên cứu, thảo luận, Đại hội VII đã kết luận, quyết định tên gọi như hiện nay. Đại hội X không đặt vấn đề viết lại Cương lĩnh mà chỉ bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991, vì vậy giữ tên gọi như hiện nay là phù hợp với quyết định của Đại hội X và phù hợp với thực tiễn nước ta, khẳng định rõ Đảng và nhân dân ta tiếp tục kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Qua thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương nhất trí tên gọi Cương lĩnh là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (các chi tiết cụ thể như: bổ sung, phát triển, thời điểm ban hành… tiếp tục cân nhắc để diễn đạt cho phù hợp và xin ý kiến Trung ương ở kỳ họp sau).

4.2. Về quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm:

Đề cương bổ sung vào các bài học lớn của cách mạng Việt Nam một số ý về bài học kinh nghiệm của 20 năm đổi mới đã được các Đại hội khẳng định:

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; “dân là gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; giữ vững đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo, trên cơ sở kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; bám sát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan, giải quyết và xử lý các vấn đề theo phương pháp khoa học, biện chứng; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.

4.3. Tình hình thế giới và những đặc điểm, xu thế lớn của thời đại:

Đề cương lựa chọn, đề xuất, bổ sung vào Cương lĩnh một số nội dung đã được tổng kết, thể hiện trong các văn kiện gần đây của Đảng, nhất là các văn kiện Đại hội VIII IX, X. Tuy nhiên, do Cương lĩnh là nói về thời kỳ quá độ với thời gian dài, cho nên phần nhận định về bối cảnh quốc tế cần thể hiện một cách bao quát, chọn lọc, đầy đủ về các đặc điểm, các xu thế, các phong trào, cả mặt hợp tác và đấu tranh, dân tộc và giai cấp, tính phức tạp, phong phú, đa dạng, tính mâu thuẫn... trong tiến trình phát triển của nhân loại và các nhân tố dài hạn chi phối sự vận động của thế giới; đồng thời dự báo, nêu lên được cả thời cơ và nguy cơ, những thuận lợi và khó khăn, thách thức mới tác động vào nước ta.

4.4. Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Xoay quanh đặc trưng nói về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, Trung ương thảo luận và nhấn mạnh: Dân chủ là mục tiêu, là động lực, phản ánh bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là nguyện vọng thiết tha của Đảng và nhân dân ta. Qua thảo luận, nhiều ý kiến đề nghị đưa “dân chủ” lên trước “công bằng”, Trung ương nhất trí tạm diễn đạt mục tiêu chung là: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Các đặc trưng khác Đề cương thể hiện theo tinh thần Đại hội X.

4.5. Về những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc:

Trên cơ sở 7 phương hướng lớn đã nêu trong Cương lĩnh năm 1991, Đề cương dự kiến bổ sung, phát triển một số nội dung theo tinh thần kết luận của Đại hội X.

Trung ương nhất trí trong bổ sung, phát triển Cương lĩnh cần phải nhấn mạnh sự cần thiết nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ cơ bản, như: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định, phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

4.6. Về thời kỳ quá độ và mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ:

- Theo tinh thần của Cương lĩnh năm 1991, Trung ương nhất trí tiếp tục xác định mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là: xây dựng xong về cơ bản các cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng; về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, con người.

- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong nước và thế giới, phân kỳ như thế nào là vấn đề rất khó và phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy chưa nên và chưa thể xác định các mốc cụ thể của toàn bộ con đường này. Tuy nhiên, căn cứ vào yêu cầu và tình hình thực tiễn ở nước ta, hầu hết các ý kiến đồng tình là cần xác định mục tiêu: Đến giữa thế kỷ XXI nước ta phải hoàn thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần nghiên cứu và làm rõ hơn các tiêu chí phản ánh mục tiêu này.

4.7. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

Về căn bản, Trung ương nhất trí, cần căn cứ tinh thần Đại hội IX và Đại hội X, khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trình bày rõ hơn trong Cương lĩnh bổ sung và phát triển những yếu tố bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường của nước ta, như: thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với hội nhập kinh tế quốc tế.

4.8. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:

Xác định mục tiêu ưu tiên hàng đầu là phát triển lực lượng sản xuất; đồng thời không ngừng xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Về cơ cấu kinh tế, căn cứ vào thực tế tình hình kinh tế nước ta và dự báo xu thế, triển vọng phát triển, dự kiến có thể không giữ thứ tự cơ cấu kinh tế “công - nông nghiệp - dịch vụ” như đã ghi trong Cương lĩnh năm 1991, mà xác định hướng xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có khả năng phát triển bền vững theo hướng “cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp”; đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

4.9. Về sở hữu và thành phần kinh tế:

Đa số Trung ương tán thành nội dung Đề cương ghi như Văn kiện Đại hội X: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.

Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến khác; Bộ Chính trị đề nghị, trên tinh thần Nghị quyết Đại hội X, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, làm rõ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.

4.10. Định hướng phát triển văn hoá và xây dựng con người:

- Đề cương đề xuất bổ sung, thể hiện rõ hơn trong Cương lĩnh vai trò, vị trí của văn hoá và định hướng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bổ sung, hoàn thiện mục tiêu, nội dung cơ bản của công tác tư tưởng, văn hoá; phát triển nhận thức về những định hướng lớn đối với văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản.

- Bổ sung những nhận thức mới về vai trò, vị trí của con người và chiến lược phát triển con người; phương hướng bồi dưỡng hình thành đầy đủ những đức tính của con người Việt Nam; những chủ trương, chính sách lớn nhằm phát triển con người toàn diện và phát huy tối đa tiềm năng con người.

4.11. Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo; khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường:

- Trung ương nhất trí với đề xuất của Đề cương, cần nói đậm hơn các nhận thức mới về vai trò, nhiệm vụ, định hướng phát triển và chính sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo; nhiệm vụ của giáo dục, đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

- Làm rõ hơn vai trò của khoa học và công nghệ; vai trò của Nhà nước và các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng trong phát triển khoa học, công nghệ; định hướng chính sách phát triển khoa học, công nghệ; vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ. Bổ sung, nhấn mạnh hơn về vấn đề bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, đối phó và thích ứng với biến đổi khí hậu.

4.12. Định hướng về quốc phòng - an ninh:

Trung ương tán thành, trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển cần khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh quốc gia; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Trình bày các quan điểm cơ bản về xây dựng quốc phòng - an ninh.

Cần khẳng định rõ: Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng - an ninh, đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; đồng thời tăng cường sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.

4.13. Định hướng về đối ngoại:

Cần nhấn mạnh tư tưởng: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; vì một nước Việt Nam giàu mạnh, là bạn, là đối tác tin cậy của các nước và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, đóng góp tích cực cho sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trình bày rõ các quan điểm cơ bản về quan hệ đối ngoại.

Trong thảo luận: nhiều ý kiến đề nghị đưa vào Cương lĩnh chủ trương: chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Có một số ý kiến đề nghị xác định trong Cương lĩnh là “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Trung ương thống nhất chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu theo tinh thần: trong quan hệ quốc tế, phải phát huy cao độ nội lực đất nước và tận dụng, phát huy thời cơ, sức mạnh của thời đại để phát triển, đồng thời phải bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc, giá trị truyền thống của dân tộc, về định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu thế thời đại.

4.14. Định hướng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

Bổ sung, thể hiện rõ thêm tư tưởng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Dân chủ gắn liền với trách nhiệm công dân, kỷ luật kỷ cương xã hội, và phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và thực hiện nghiêm pháp luật. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

4.15. Về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân:

Nhấn mạnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đoàn viên, hội viên; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện giám sát, phản biện xã hội; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

4.16. Về Đảng Cộng sản Việt Nam và công tác xây dựng Đảng:

- Đề cương diễn đạt bản chất của Đảng như Văn kiện Đại hội X: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.

- Khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Cụ thể hoá, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với bối cảnh của đất nước và thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

- Nhấn mạnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải trong sạch và vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có đủ trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo; không phạm sai lầm về đường lối, gắn bó máu thịt với nhân dân, giữ vững truyền thống đoàn kết; có phương thức lãnh đạo khoa học, phù hợp.

(còn tiếp)








Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất