Thứ Sáu, 29/11/2024
Hướng dẫn - chỉ đạo
Thứ Ba, 9/12/2008 17:58'(GMT+7)

Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Ngày nhân quyền thế giới (10/12/1048 – 10/12/2008)

Về mặt lịch sử, ý tưởng thành lập một tổ chức quốc tế bảo vệ quyền và các tự do cơ bản của con người, cũng như thiết lập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã có từ lâu. Chính sự tàn bạo khủng khiếp, vi phạm và chà đạp thô bạo, phổ biến các quyền, tự do, nhân phẩm của con người do chủ nghĩa phát xít trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II (1939 - 1945) gây ra, khiến các quốc gia nhận thức sâu sắc về hậu quả của sự không liên kết trong việc bảo vệ hòa bình, nhân phẩm, các quyền và tự do cơ bản của con người; kết quả là đã tạo ra một bước ngoặt dẫn tới sự ra đời của Liên Hợp quốc – tổ chức quốc tế lớn nhất hiện nay, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng cam kết bảo vệ, thúc đẩy và phát triển các quyền và tự do cơ bản của con người trên phạm vi toàn cầu.

Hiến chương Liên Hợp quốc ủy quyền cho Hội đồng Kinh tế, Xã hội thành lập các ủy ban chuyên môn trong đó có Ủy ban Nhân quyền (nay là Hội đồng Nhân quyền[1]). Ủy ban được thành lập năm 1946 và đã bắt tay ngay vào việc soạn thảo Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người. Dự thảo được hoàn tất và chính thức được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua vào ngày 10/12/1948[2] tại Paris, chỉ ba năm sau khi Liên Hợp quốc được thành lập. Bản Tuyên ngôn là thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về quyền con người, được các quốc gia cùng nhau xây dựng, dựa trên việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và bất di, bất dịch của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.

Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người thừa nhận tính toàn diện các quyền của con người, đó là các quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của cá nhân; quyền của trẻ em, quyền của phụ nữ, và khẳng định quyền con người thuộc về tất cả mọi người; công nhận, thực hiện nhân quyền là mục tiêu chung của toàn nhân loại.

Trải qua 60 mươi năm, các quy định của Tuyên ngôn trên vẫn còn nguyên giá trị, bởi tầm nhìn của những nhà soạn thảo về tính phổ quát và không thể chia cắt của các loại quyền; bởi sự thống nhất những quan điểm còn có sự khác biệt về nhân quyền và cách thực thi nhân quyền giữa các thành viên của Liên Hợp quốc. Chính những yếu tố đó đã tạo cho sức sống bền vững của Tuyên ngôn.

2. Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người đặt cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về quyền con người

- Ngay sau khi Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền được thông qua, Ủy ban Nhân quyền đã bắt tay vào việc soạn thảo một số công ước quốc tế về quyền con người, sẽ có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với các quốc gia thành viên. Nỗ lực đó đã được thực hiện khi cả hai công ước (Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa) được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua vào ngày 16/12/1966. Cả hai công ước này chính thức có hiệu lực từ năm 1976. Trên cơ sở các quyền được quy định trong Tuyên ngôn, hai công ước xác định cụ thể và chi tiết các quyền và tự do cơ bản của con người trên lĩnh vực quyền dân sự, chính trị; quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; đồng thời xác lập trách nhiệm, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người. Hai công ước thiết lập cơ chế giám sát các quốc gia thành viên thực hiện công ước bằng việc thành lập Ủy ban giám sát công ước (Ủy ban Nhân quyền được thành lập theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được thành lập theo Nghị quyết 1985/17 ngày 28 tháng 5 năm 1985 của Hội đồng Kinh tế, xã hội).

- Việc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước quốc tế năm 1966 có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo lập hệ thống các nguyên tắc, quy phạm và chuẩn mực quốc tế về quyền con người và là cơ sở để hình thành các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong từng lĩnh vực cụ thể. Hiện nay, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, hai công ước quốc tế năm 1966 và hai Nghị định thư bổ sung công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị được cộng đồng quốc tế thừa nhận là Bộ luật quốc tế về quyền con người.

- Ngoài các văn kiện nêu trên, các công ước và các tuyên bố về quyền con người và có liên quan đến quyền con người được Liên Hợp quốc thông qua từ khi thành lập đến nay tập trung vào bảo vệ quyền và tự do cơ bản của con người trên các lĩnh vực: bảo vệ ngăn ngừa phân biệt đối xử; bảo vệ quyền phụ nữ; quyền trẻ em; xóa bỏ chế độ nô lệ; các thể chế, tập tục tương tự nô lệ; quyền con người trong quản lý tư pháp; tự do thông tin; tự do hiệp hội; tuyển dụng lao động; kết hôn, gia đình và thanh niên; phúc lợi xã hội; tiến bộ và phát triển; quyền hưởng thụ văn hoá, phát triển và hợp tác văn hoá quốc tế; vấn đề quốc tịch, không quốc tịch, cư trú và người tị nạn; tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại, diệt chủng; về cấm tra tấn...

3. Quan điểm của Đảng ta về quyền con người

- Ngày 12/7/1992, Ban Bí thư (khóa VII) ban hành Chỉ thị 12/CT-TW về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta". Chỉ thị 12/CT-TW của Ban Bí thư đã đề cập đến những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề quyền con người và quan điểm của Đảng ta về vấn đề quan trọng này.

Trên cơ sở Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Chỉ thị đã đưa ra một hệ thống quan điểm trên lĩnh vực này:

1. Trước hết Đảng ta khẳng định rõ, quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Đó thành quả đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức, bóc lột và khẳng định quyền con người làm chủ thiên nhiên[3].

Quan điểm này chỉ rõ nguồn gốc của quyền con người, giúp chúng ta có cơ sở bác bỏ các học thuyết tư sản về nhân quyền tự nhiên và coi nhân quyền là phát kiến, là giá trị của phương Tây.

2. Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con người có tính giai cấp sâu sắc.

Quan điểm này nhắc nhở chúng ta phải tỉnh táo, không được mơ hồ khi xem xét những vấn đề nhân quyền cụ thể.

3. Giải phóng con người (trong đó có việc đảm bảo các quyền con người) gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều kiện được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất.

Quan điểm này nhằm khẳng định lại mục tiêu mà những người cộng sản theo đuổi là xoá bỏ nguồn gốc sâu xa nhất của mọi vi phạm nhân quyền - đó là ách áp bức dân tộc, giai cấp; xác định việc bảo đảm tối đa quyền con người là thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.

4. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội kết hợp chặt chẽ với nhau: lợi ích cá nhân được coi trọng vì đó là mục tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội, song cần chú trọng bảo đảm lợi ích của tập thể và của cả cộng đồng dân tộc.

Đây là quan điểm phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa, cũng là thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta theo đuổi so với các xã hội loài người từng biết.

5. Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.

Quan điểm này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó chỉ ra được cách giải quyết một trong những mối quan hệ cơ bản nhất của vấn đề nhân quyền, khắc phục được cách hiểu phiến diện, cực đoan về vấn đề nhân quyền.

6. Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia. Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Trách nhiệm pháp lý này đã được Liên Hợp quốc qui định. Mặt khác, chính Liên Hợp quốc cũng đã nhấn mạnh trong Hiến chương của mình: Không quốc gia nào, kể cả Liên Hợp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia.

7. Quyền con người luôn luôn gắn với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác.

Chỉ thị 12/CT-TW của Ban Bí thư về Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta đã xác định rõ, bảo đảm quyền con người là trách nhiệm chung mà tất cả các ngành, các cấp, các địa phương, cơ sở phải tích cực và chủ động thực hiện, nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao các quyền con người, vì lợi ích của nhân dân ta. Quyền con người là vấn đề đang được đặt ra trong các mối quan hệ quốc tế, chúng ta cần làm tốt công tác đối ngoại, trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, thiện chí hợp tác trên lĩnh vực quyền con người, đồng thời đấu tranh với những âm mưu lợi dụng vấn đề này để chống phá ta.

4. Việt Nam cam kết tôn trọng, thúc đẩy, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người theo các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp quốc và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia

- Ngay sau khi giành độc lập, năm 1945, một năm sau đó Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ban hành đã thiết lập và đảm bảo cho công dân thực hiện và hưởng thụ các quyền tự do, dân chủ. Các Hiến pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992) quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam được phát triển, mở rộng và hoàn thiện cả về nội dung, số lượng và cơ chế đảm bảo.

- Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, được đánh dấu bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, năm 1975, Việt Nam trở thành thành viên Liên Hợp quốc (năm 1977), từ đó đến nay nước ta đã tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người và tích cực đóng góp vào các hoạt động bảo vệ nhân quyền quốc tế.

- Thực hiện đường lối đổi mới nước ta đã tham gia ký và phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989; trong các năm 1994, 1996, Việt Nam tiếp tục gia nhập một loạt các công ước quốc tế khác về quyền trẻ em hoặc liên quan đến quyền trẻ em do Tổ chức Lao động quốc tế thông qua.

- Hoạt động lập pháp từ năm 1987 đến nay, đặc biệt sau Hiến pháp năm 1992 được thông qua, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục thực hiện chủ trương, đường lối nhất quán tất cả là vì con người, đề cao các giá trị của quyền con người. Con người được coi là nhân tố tạo dựng xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh; đồng thời Nhà nước thực thi pháp luật cũng như công dân thực hiện có hiệu quả các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật sẽ đảm bảo tốt cho việc hưởng thụ nhân quyền của tất cả mọi người.

- Có thể khẳng định rằng những thành tựu bảo vệ, đấu tranh nhân quyền đã đạt được ở nước ta đến nay là rất to lớn và cơ bản. Và nếu so sánh với các quy định nhân quyền quốc tế, ở mức độ khái quát, có thể khẳng định: hệ thống pháp luật Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho việc thúc đẩy, bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân. Chính những nỗ lực phấn đấu và thành quả hiện thực trên lĩnh vực bảo vệ nhân quyền ở nước ta trong suốt thời gian qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao với việc Việt Nam được bầu làm thành viên Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp quốc, nhiệm kỳ (2001 - 2003) và hiện nay đang là Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc.

- Năm 1998, Đảng ta đã ra Chỉ thị về “Quy chế dân chủ ở cơ sở” mà nội dung cơ bản là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Các quyền tham gia quản lý của nhân dân đã được thể chế hoá, cụ thể hóa trong các Nghị định của Chính phủ.

- Công tác bầu cử, ứng cử đã được đổi mới theo hướng mở rộng sự lựa chọn cho các cử tri; Tổ chức và sinh hoạt Quốc hội có những cải tiến theo hướng bảo đảm cho cơ quan này hoạt động hiệu quả, có thực quyền, thật sự là cơ quan quyền lực, đại diện của nhân dân.

- Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) đã Chủ trương xem xét sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai, nghiên cứu ban hành luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân … Chủ trương này được xem là giải pháp quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng.

- Quyền tự do ngôn luận, báo chí được tôn trọng. Luật báo chí quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí …”, báo chí “không bị kiểm duyệt”.

- Hiện nay, toàn quốc có 702 cơ quan báo chí, trong đó có 634 cơ quan báo chí in với 813 ấn phẩm, gồm 174 báo (Trung ương: 73; địa phương: 101); 459 tạp chí (Trung ương 353; địa phương: 106); 01 Hãng Thông tấn quốc gia.

- Về loại hình Phát thanh - Truyền hình: Cả nước hiện có 67 Đài phát thanh, Truyền hình (Trung ương: 02; địa phương 65); 01 Đài Truyền hình kỹ thuật số mặt đất.

- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm, dựa trên quan điểm “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH”1[4]. Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết về Công tác tôn giáo (số 25 - NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003), tiếp đó Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004; Chính phủ đã ban hành Nghị định Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (số 22/2005/NĐ-CP, ngày 01 tháng 3 năm 2005)

- Ngày 01/02/2007, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức họp báo lần đầu tiên công bố cuốn sách “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”.

+ Hiện nay, có hơn 28 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân. Riêng từ tháng 09/2006 đến nay có 13 hệ phái, tổ chức tôn giáo được cấp đăng ký hoạt động gồm: đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam, đạo Baha’i, Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật đường Nam tông Minh sư đạo, Minh lý đạo Tam tông miếu, Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam, Tổng hội Tin lành Báptít Việt Nam (Ân điển-Nam phương), Hội thánh Báptít Việt Nam (Nam phương), Hội thánh Mennonite Việt Nam, Hội thánh Liên hữu Cơ đốc, Hội thánh Tin lành Trưởng lão Việt Nam. Một số tổ chức, hệ phái mặc dù chưa được công nhận nhưng vẫn duy trì sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật tạo nên đời sống tâm linh tôn giáo phong phú ở khắp các vùng, miền trên cả nước. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến cuối năm 2007, cả nước có trên 20 triệu tín đồ, chiếm 25% dân số cả nước; chức sắc các tôn giáo khoảng 80 ngàn; cơ sở thờ tự có trên 26 ngàn; hệ thống trường lớp đào tạo chức sắc các tôn giáo gồm: Phật giáo với 04 học viện và 32 trường Trung cấp phật học; Công giáo có 06 Đại chủng viện; Tin lành có 01 Viện Thánh kinh Thần học của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam). Đạo Cao đài và Phật giáo Hòa hảo tổ chức các lớp học giáo lý hạnh đường tại các cơ sở thờ tự.

- Quyền của các dân tộc thiểu số mặc dù còn có nhiều hạn chế do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử để lại, hiện nay đã có nhiều tiến bộ đáng kể, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng về kỹ thuật và xã hội. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 24/NQ-TW “ Về công tác dân tộc” với các Chương trình 134, 135 (giai đoạn I và II), tình hình phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) đã có những bước chuyển quan trọng và thu được những thành tựu to lớn. Lương thực bình quân đầu người tăng từ 250kg/người/năm (năm 2003) lên bình quân 350kg/người/năm (năm 2007). Tính đến tháng 6/2008, thực hiện Quyết định số 134/TTg đã giải quyết về nhà ở cho 340 ngàn hộ dân tộc thiểu số nghèo và hỗ trợ đất ở cho 62.310 hộ. Một số chỉ tiêu đạt được cụ thể như sau:

+ Tỷ lệ hộ nghèo đói giảm nhanh qua các năm, bình quân giảm nghèo khoảng 3-5%/năm, góp phần kiềm chế dần tốc độ phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, các nhóm dân tộc.

+ Đầu tư phát triển nhanh chóng mạng lưới điện quốc gia về các xã đặc biệt khó khăn. Cho đến nay, 100% số huyện và 95% xã đã có điện. Các nguồn thủy điện nhỏ và nguồn điện năng từ sức gió , pin năng lượng mặt trời cũng được quan tâm đầu tư xây dựng. Đã có hơn 70% số hộ được dùng điện, nhiều tỉnh đã có 100% số xã có điện. Như vậy, phấn đấu đến năm 2010, mục tiêu 90% hộ dân có đủ điện sinh hoạt như NQ 24 đặt ra là hoàn toàn có thể thực hiện được.

+ Đến hết năm 2007, 100% các xã đặc biệt khó khăn có trường tiểu học, nhà mẫu giáo và các lớp bán trú dân nuôi. Các bản ở xa trung tâm đều có lớp cắm bản, xóa bỏ toàn bộ tình trạng học 3 ca. 90 – 95% trẻ em trong độ tuổi đến trường, 90% xã đặc biệt khó khăn có trường Trung học cơ sở kiên cố cấp 4 trở lên. 100% các huyện đều có trường Trung học phổ thông. Ở một số huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa, có các trường Phổ thông Trung học dân tộc nội trú và trường dân nuôi tại các cụm xã .

+ Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được mở rộng đến 49 tỉnh với 280 trường gồm 07 trường Trung ương, 47 trường Tỉnh, 226 trường Huyện và cụm xã với trên 85 nghìn học sinh người dân tộc thiểu số theo học. Chính sách “cử tuyển” và xây dựng “trường dân tộc nội trú” cho con em đồng bào các dân tộc được xem là một chính sách “bất bình đẳng tích cực” nhằm rút ngắn khoảng cách về phát triển giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh. Điểm đáng chú ý là, trong khi tỷ lệ người dân tộc thiểu số chỉ chiếm có 13,8% dân số của cả nước, thì học sinh DTTS chiếm đến 17, 68% số học sinh tiểu học cả nước; 14,78% Trung học cơ sở và 10,32% Trung học phổ thông.

+ Đến cuối năm 2007, 100% các huyện có trung tâm y tế và bác sỹ , cán bộ y tế. Hầu hết các xã đặc biệt khó khăn đã có trạm y tế và y sỹ. Đa số thôn bản đã có cán bộ y tế làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm xuống dưới 25%, đại đa số đồng bào DTTS được sử dụng muối Iốt phòng chống bệnh bướu cổ. Dịch sốt rét ở vùng DTTS đã được ngăn chặn.

+ Quyền làm việc và tự do kinh doanh được bảo đảm nhờ nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên nhanh từ dưới 200 USD (vào cuối những năm 90) lên 640USD, năm 2006. Nếu tính theo sức mua thì khoảng trên 1200USD. Hệ thống giáo dục và y tế, sau một thời gian xuống cấp nay đã được khôi phục và phát triển. Hiện nay 100% các tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập Tiểu học.

+ Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu đã đạt được những thành tích rất “ấn tượng”. Có tới 94,6% các cháu nhỏ được sử dụng thuốc dự phòng; 6 bệnh: lao, sởi, ho gà bạch cầu, uốn ván, bại liệt ở trẻ em đã được loại trừ về cơ bản…

+ Ngày 28.11.2007, tại Hà Nội, Chương trình Phát triển LHQ công bố Báo cáo phát triển con người 2007-2008, Việt Nam được xếp thứ 105 trong danh sách 177 nước xếp hạng của LHQ về chỉ số phát triển con người (HDI), tăng 4 bậc so với năm 2006.

Tuy vậy, nhân quyền là vấn đề nhạy cảm, dễ bị lợi dụng về chính trị, đảm bảo thực hiện quyền con người là cả một quá trình phấn đấu lâu dài, không thể một sớm, một chiều nhất là đối với một đất nước đã chịu biết bao hy sinh mất mát về người và của do thực dân, đế quốc gây nên và hậu quả chiến tranh để lại còn rất nặng nề. Do đó, những thành quả nhân quyền đã đạt được chúng ta cũng không bao giờ tự mãn.

Trong thời điểm hiện tại, cần ý thức sâu sắc rằng, giải quyết các vấn đề tiêu cực của xã hội phải đảm bảo ổn định về chính trị và thực thi nhân quyền phải gắn liền với bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền và an ninh quốc gia - bài học đã được rút ra từ lịch sử đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược của dân tộc ta. Trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, cần cảnh giác và càng không được mơ hồ với những luận điệu sai trái và thù địch coi: nhân quyền cao hơn chủ quyền; nhân quyền không biên giới quốc gia; quá nhấn mạnh tính phổ biến của nhân quyền mà coi nhẹ các yếu tố có tính đặc thù về lịch sử, văn hóa, dân trí, trình độ phát triển kinh tế, xã hội hay coi tự do, lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia, dân tộc... để đi đến sao chép một cách máy móc mô hình dân chủ, nhân quyền của nước này, áp đặt cho nước khác, hay lợi dụng tính nhạy cảm của nhân quyền nhằm can thiệp công việc nội bộ quốc gia, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định từ bên trong phục vụ cho ý đồ chính trị đen tối thì nhân quyền chẳng những không được đảm bảo mà hành vi đó còn là vi phạm, chà đạp nhân quyền không thể chấp nhận được.

Đảng, Nhà nước Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng, cam kết và thực thi các quy định nhân quyền quốc tế, trước hết và chủ yếu là trách nhiệm thuộc về quốc gia thành viên; đồng thời coi trọng đối thoại và hợp tác quốc tế, coi đó vừa là đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; vừa là cơ hội để học tập kinh nghiệm trong xây dựng và thực thi pháp luật bảo đảm quyền con người; cơ hội chia sẻ quan điểm, giá trị chung, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ nhân quyền trong khu vực và trên thế giới; đồng thời chia sẻ những điểm còn có sự khác biệt trong cách hiểu và thực thi nhân quyền, qua đó làm cho nhân dân và bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về quyền con người; khẳng định những thành tựu về nhân quyền mà chúng ta đã đạt được. Vì vậy, Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương: “Chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam[5]”. Đối thoại và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền dựa trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ngày càng tốt hơn.



[1] Hội đồng Nhân quyền thay thế Ủy ban Nhân quyền theo Nghị quyết số 60/251 ngày 15/3/2006 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc

[2] Hiện nay Liên hợp quốc lấy ngày thông qua Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người là Ngày Nhân quyền quốc tế hàng năm

[3] Các đoạn in nghiêng từ mục 1-7 là trích từ Chỉ thị 12CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng .

[4] 1 Văn kiện Hội nghị Trung ương VII, khoá IX, NXb CTQG H. 2003, tr48

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất