Sáng 4/5, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Di sản tư tưởng của Các Mác và ý nghĩa thời đại”. Hội thảo nhằm khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng trong di sản tư tưởng của Các Mác; khẳng định ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại của Chủ nghĩa Mác đối với cách mạng thế giới và Việt Nam; đồng thời góp phần làm rõ thêm những điểm cần bổ sung, phát triển tư tưởng Các Mác trong thời đại ngày nay.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương; Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam; Phạm Văn Linh, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đồng chủ trì Hội nghị.
Cách đây 200 năm, ngày 5 tháng 5 năm 1818, C.Mác - một nhân cách vĩ đại, nhà lý luận thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã chào đời tại Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ.
C.Mác nổi bật về trí thông minh và lòng vị tha, yêu thương con người; đức tính giản dị và tấm lòng nhiệt huyết; ý chí vươn lên và năng lực laAo động phi thường; lòng can đảm và sự khoan dung, độ lượng. Cuộc đời và những di sản tư tưởng của Mác đã đi vào lịch sử nhân loại với vị trí kiệt xuất trong hàng ngũ những vĩ nhân. Đúng như Ph.Ăngghen khẳng định: "Tên tuổi Người, sự nghiệp của Người sống mãi nghìn thu!".
C.Mác đã để lại một kho tàng tri thức đồ sộ và phong phú
Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh, C.Mác đã để lại cho chúng ta một kho tàng tri thức đồ sộ và phong phú ở nhiều mặt, trên nhiều lĩnh vực như: triết học, xã hội học, kinh tế học, lịch sử, pháp lý, chính trị, v.v... Đó là kết quả của sự lao động quên mình, niềm say mê nghiên cứu khoa học, tiếp thu có phê phán, vượt qua cả những thiên tài xuất sắc trước Ông, kể từ thời cổ đại Hy Lạp cho đến thời đại Ông. Đó còn là kết quả của sự tổng kết thực tiễn và khái quát lý luận về phong trào công nhân châu Âu cực kỳ sôi động lúc bấy giờ. Nhưng trên hết và trước hết, đó là sự sáng tạo tuyệt vời của một bộ óc thiên tài, một bậc vĩ nhân, có ảnh hưởng to lớn nhất trong mọi thời đại của nhân loại.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng khẳng định, trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác, công lao to lớn và đầu tiên là ông đã xây dựng một thế giới quan và phương pháp luận mới, khoa học và cách mạng, đem lại cho nhân loại tiến bộ và nhất là cho giai cấp công nhân một công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo đó, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện, tích hợp và trình bày trong một hệ thống các quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, chứ không phải ngược lại; kinh tế, xét đến cùng, quyết định chính trị; sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội như một quá trình lịch sử-tự nhiên. Nhờ vậy, lần đầu tiên nhân loại có một học thuyết phát triển tương đối hoàn chỉnh. C.Mác chỉ ra rằng, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội; phương thức sản xuất vật chất quyết định các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Chính thực tiễn của chủ nghĩa tư bản châu Âu đương thời đã được C.Mác mổ xẻ, phân tích, giải phẫu và minh chứng sâu sắc cho các quan điểm lý luận của mình.
Vượt trên các cách giải thích khác lúc bấy giờ về lịch sử xã hội loài người, C.Mác đã kiên trì đi tìm và đã tìm ra “những điều bí ẩn của lịch sử”, “chủ thể của lịch sử” và “chìa khóa của lịch sử đích thực”. Theo Ông, động lực thúc đẩy sự vận động của lịch sử không phải là sức mạnh siêu tự nhiên, cũng không phải là những tư tưởng hay ý chí của các vĩ nhân, mà chính là nền sản xuất vật chất, là những lợi ích vật chất và trong đó, chính quần chúng nhân dân mới là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử. V.I. Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị;”[1].
Thứ hai, về vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã vạch ra những quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, nhìn nhận chủ nghĩa tư bản trong cả quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của nó. Trong lời giới thiệu cho cuốn “Tại sao Mác đúng?” của mình, Terry Eagleton đã viết: “Các Mác là người đầu tiên nhận biết đối tượng lịch sử được biết đến là chủ nghĩa tư bản – chứng minh nó xuất hiện như thế nào, hoạt động theo quy luật nào và có thể đi đến chỗ kết thúc ra sao. Cũng giống như Newton đã phát hiện ra những sức mạnh vô hình được biết đến là luật vạn vật hấp dẫn, hay Freud đã chỉ ra hoạt động của một hiện tượng vô hình được gọi là vô thức, Các Mác đã khám phá cuộc sống hàng ngày của chúng ta để phát hiện một thực thể chưa từng được nhận biết gọi là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”.[2]
Một trong hai phát kiến vĩ đại của Mác là việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư được ví như “hòn đá tảng” trong toàn bộ học thuyết của Mác. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật cơ bản, phổ biến của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính tư nhân tư bản chủ nghĩa của việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Để tồn tại và vượt qua các cuộc khủng hoảng, các cú sốc trong sự phát triển, chủ nghĩa tư bản luôn phải tự điều chỉnh để điều hòa mâu thuẫn này. Điều đó cho thấy, phát kiến vĩ đại của Mác luôn đúng, ngay cả khi chủ nghĩa tư bản hiện đại bước vào thời đại toàn cầu hóa và chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Với hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã đặt nền móng vững chắc cho việc hiện thực hóa tư tưởng về chủ nghĩa xã hội khoa học - học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột và tha hóa. V.I. Lênin đã nhận định rằng, điểm cốt yếu của học thuyết Mác là soi sáng vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản.
Nhờ có thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học, C. Mác đã phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng thành công xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ cho giai cấp vô sản hiểu rõ rằng, trước hết họ phải tự mình vùng lên giải phóng khỏi ách thống trị của chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết xung quanh mình tất cả những người lao động.
V.I. Lênin khẳng định: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”.[3] Đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới thì học thuyết của Mác là vũ khí lý luận, vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột cũng như trong sự nghiệp xây dựng xã hội tương lai tươi đẹp.
Theo đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử cụ thể ở nước Nga trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, bước đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển, tạo nên giai đoạn Lênin trong sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và hình thành nên chủ nghĩa Mác - Lê nin. Với thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết trở thành một chế độ chính trị - xã hội hiện thực; chủ nghĩa Mác từ một “bóng ma ám ảnh châu Âu” đã được hiện thực hóa trong phong trào công nhân, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của loài người, là chỗ dựa cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc đứng lên đấu tranh tự giải phóng, xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Những thắng lợi to lớn của chủ nghĩa xã hội đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, là minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết khoa học và cách mạng, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Như vậy, C.Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà còn là nhà cách mạng vĩ đại. Học thuyết do Ông sáng lập là ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác và sau này là chủ nghĩa Mác - Lênin đã chấm dứt thời kỳ “mò mẫm như trong đêm tối” của hàng triệu nhân dân lao động sống dưới ách áp bức và bóc lột, tìm đường giải phóng cho mình. Lý luận của Mác được truyền bá rộng rãi trên toàn thế giới, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến mọi quốc gia - dân tộc, đến các nền văn hóa - chính trị trong nhiều bối cảnh lịch sử khác nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành cách mạng thành công, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nỗ lực xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh đồng bộ công cuộc đổi mới, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước. Việt Nam từ một nước có trình độ kinh tế - xã hội lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Vị thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng cao. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới, một lần nữa khẳng định sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tính đúng đắn của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng của Mác cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang và sẽ là ngọn đuốc dẫn đường cho cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Tư tưởng của C.Mác vẫn còn sống mãi với nhân loại
Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được gần 100 bài tham luận của các nhà khoa học, trong đó có 26 tham luận của các nhà khoa học quốc tế. Tham luận của các nhà khoa học tập trung vào một số nội dung như sau:
Thứ nhất, khẳng định giá trị lý luận trong di sản tư tưởng của C. Mác.
Kể từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã trải qua hơn 170 năm. Thực tiễn đã có nhiều thay đổi; khoa học – kỹ thuật có những bước phát triển vượt bậc; phong trào công nhân trở nên rất đa dạng và có những thay đổi to lớn; chủ nghĩa tư bản với những thích nghi mới vẫn tồn tại, song những thách thức, khủng hoảng thuộc về bản chất nội tại của nó vẫn tiếp tục tiềm ẩn. Mặc dù các lực lượng thù địch dùng nhiều thủ đoạn chống phá, bôi nhọ, xuyên tạc, thậm chí tìm mọi cách phủ nhận, nhưng tư tưởng của Mác cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn phát triển, vẫn tràn đầy sức sống, vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của hàng triệu người trên trái đất. Nhiều giá trị của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn mang sức sống trường tồn vẫn tiếp tục tỏa sáng với chủ nghĩa nhân văn vì con người, với phương pháp biện chứng duy vật, quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết về giá trị thặng dư, học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, học thuyết về chủ nghĩa xã hội v.v.
Với tinh thần khoa học và khách quan, chúng ta cần phải đặt mình trong bối cảnh lịch sử cụ thể thời Mác lúc bấy giờ để nhìn nhận, đánh giá đúng những luận điểm của học thuyết Mác. Trọng trách của chúng ta hiện nay là cần học tập tầm nhìn chiến lược, phương pháp tư duy và bản lĩnh của Lê nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể, làm cơ sở để bổ sung, hoàn thiện chủ nghĩa Mác. Chúng ta có sứ mạng tiếp tục lan tỏa học thuyết Mác trên tinh thần của một học thuyết phát triển, học thuyết cải tạo và thay đổi thế giới, học thuyết giải phóng con người, theo đó tư duy và định hình cho đường lối phát triển của chúng ta phù hợp với bối cảnh và điều kiện mới. Điều phải hết sức tránh là đánh giá học thuyết Mác một cách giáo điều, chung chung; đặc biệt, vững vàng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp tục đấu tranh, bác bỏ những quan điểm sai trái, xuyên tạc học thuyết Mác - Lênin; vững tin vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng của C. Mác phù hợp thực tiễn ở mỗi quốc gia, dân tộc
C. Mác là một thiên tài nhưng Ông vẫn bị quy định bởi chính những điều kiện lịch sử của thời đại mình. Chúng ta không thể đòi hỏi C. Mác suy nghĩ thay cho các thế hệ sau những vấn đề chưa đặt ra trong thời đại của Ông. Chính sự hình thành tư tưởng của C.Mác cũng là một quá trình phát triển từ tinh thần dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa; từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật biện chứng. Mỗi nguyên lý trong học thuyết của C.Mác cũng luôn được Ông bổ sung, phát triển bằng tổng kết thực tiễn phong trào công nhân và khái quát các thành tựu khoa học hiện đại. Sau này, V.I. Lênin, xuất phát từ những điều kiện thực tiễn cụ thể của thời đại mình đã bổ sung, phát triển lý luận của C.Mác. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những vận dụng hết sức sáng tạo và bổ sung nhiều luận điểm mới cho chủ nghĩa Mác phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Chẳng hạn, để giải quyết một trong những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giành độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiếp theo là cách mạng xã hội chủ nghĩa; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều này nói lên rằng, nghiên cứu và vận dụng, bổ sung, phát triển tư tưởng của C.Mác phải dựa trên tinh thần biện chứng chứ không được giáo điều, xơ cứng; phải linh hoạt, tùy từng điều kiện thực tiễn lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc.
V.I. Lênin cũng từng nhận định: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó, còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ khi họ bắt tay vào hành động”[4]. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới đã chứng tỏ rằng: lúc nào, ở đâu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin được vận dụng đúng đắn, sáng tạo thì ở nơi đó, lúc đó cách mạng vượt qua được những thử thách để tiến lên. Ngược lại, ở đâu và lúc nào, các nguyên lý ấy bị hiểu sai, vận dụng máy móc giáo điều, xét lại, thì cách mạng gặp khó khăn, tổn thất, thậm chí thất bại.
Thứ ba, một số vấn đề do thực tiễn mới đặt ra cần được soi sáng bằng tư tưởng của C. Mác
Chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù có tiến bộ hơn so với chính nó vào thời điểm mà C.Mác nghiên cứu nhưng vẫn có những khiếm khuyết nội tại không thể tự mình khắc phục. Bất bình đẳng xã hội vẫn tồn tại và ngày càng gay gắt ở ngay các nước tư bản giàu có; chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và đa số các nước đang phát triển ngày càng trầm trọng. Xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn xã hội vẫn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức lớn của nhân loại. Học giả Allen W. Wood thậm chí đã chỉ ra rằng: “Phần lớn mọi người đều cho rằng Mỹ là quốc gia giàu có nhất trên thế giới, nhưng đó cũng là quốc gia bất bình đẳng nhất trên thế giới: 400 người giàu nhất nước Mỹ sở hữu khối lượng tài sản cao hơn tổng số tài sản của 150 triệu người nghèo nhất. Những người giàu nhất chiếm 1% dân số nhưng lại sở hữu hơn 1/3 tổng lượng tài sản của toàn xã hội, vượt quá tổng lượng tài sản của những người có thu nhập thấp nhất nước Mỹ- đối tượng chiếm tới 95% dân số”[5]. Điều này càng chứng tỏ, lý luận của chủ nghĩa Mác về xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn luôn đúng và lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, thực tiễn.
Có ý kiến cho rằng, trong nền kinh tế tri thức và công nghiệp 4.0, sứ mệnh lịch sử hiện nay không còn thuộc về giai cấp công nhân mà là thuộc về một số tầng lớp, giai cấp khác; thậm chí thuộc về người máy... Nhờ lý luận của C.Mác, chúng ta thấy rõ, dù nền sản xuất hiện đại được tự động hóa, nhưng xét về nội dung kinh tế thì giai cấp công nhân hiện đại vẫn là người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội và là những người phải được hưởng thụ xứng đáng các thành quả phát triển. Xét về khía cạnh tư tưởng - chính trị thì chỉ có giai cấp công nhân mới tập hợp được các giai tầng lao động khác do Đảng cộng sản lãnh đạo để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Do địa vị chính trị - xã hội của mình nên chỉ có giai cấp công nhân mới giải quyết được các vấn đề chính trị - xã hội trong quá trình xây dựng xã hội mới. Xét về nội dung văn hóa - tư tưởng, chỉ có giai cấp công nhân mới là lực lượng xác lập được các hệ giá trị mới, như: lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do…để thay thế cho hệ giá trị tư sản cũ. Do vậy, học thuyết của C.Mác và chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa thời sự.
Thực tế cho thấy, sự phát triển của lực lượng sản xuất dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học-công nghệ đang đưa nhân loại tới những mô hình phát triển rất mới như Công nghiệp 4.0 hay Xã hội siêu thông minh 5.0 là phù hợp với học thuyết về sự thay thế, phát triển các hình thái kinh tế-xã hội của C.Mác. Những mục tiêu mà các mô hình này đặt ra như: mang đến cho con người một cuộc sống tiện nghi, không phân biệt về tuổi tác, sức khỏe, giới tính, địa lý, ngôn ngữ; đảm bảo phát triển bao trùm và bền vững, không để một ai bị tụt lại phía sau; giải phóng và phát triển con người...cũng chính là luận điểm căn bản mà C.Mác đã tiên lượng trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản cách nay 170 năm, phù hợp với bản chất nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa thời đại của học thuyết Mác với những tiên lượng và giá trị trường tồn của nó, là luận cứ khoa học đầy sức thuyết phục, luôn thôi thúc chúng ta xây dựng khát vọng và tầm nhìn phát triển hướng tới một xã hội hiện đại, nhân văn, bao trùm và bền vững, vì con người, lấy con người làm trung tâm, do con người và giải phóng con người như một giá trị cốt lõi, phổ quát nhất của nhân loại. Đúng như Terry Eagleton đã nhận định về C.Mác: “Quan niệm của C.Mác về tự nhiên và môi trường đáng ngạc nhiên là đã vượt xa thời đại mà ông đang sống. Không thể có người chiến sĩ kiên trung nào vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, hòa bình thế giới, chống chủ nghĩa phát xít và độc lập cho các nước thuộc địa như phong trào chính trị mà công trình của C.Mác đã sản sinh ra.”[6]
Có thể khẳng định, tư tưởng của C.Mác vẫn còn sống mãi với nhân loại, bởi bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của những di sản tư tưởng của Mác và chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn hoàn toàn đúng đắn và hơn nữa, lại luôn được bổ sung, phát triển bởi những người mác-xít chân chính.
_______________________________________________________
[1] Lênin Toàn tập, t 23, NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1980, tr.53
[2] Tery Eagleton,“ Why Marx was right”, Đinh Xuân Hà và Phương Sơn dịch
[3] V.I. Lênin, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 23, trang 50
[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 34, tr 152-153.
[5] Triết học và sự tham gia chính trị: Nhìn từ lĩnh vực công, do Allyn Fives và Keith Breenchủ biên, NXB Palgrave Macmillan, 2016 (theo nguồn phòng khai thác và phổ biến tin của Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)
[6] Tery Eagleton,“ Why Marx was right”, Đinh Xuân Hà và Phương Sơn dịch
Thu Hằng