Dự thảo báo cáo chính trị của BCHTƯ tại Đại hội XI đã chỉ ra :
“Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục : Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi...” (Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng).
Đặc biệt là “quốc nạn” tham nhũng, một trong những nguy cơ có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ, gây bức xúc và giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng...nhưng qua nhiều nhiệm kỳ vẫn chưa được khắc phục, trái lại tình hình ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong khi đó, nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, tính chiến đấu sút kém, tự phê bình và phê bình hầu như không còn tác dụng...
Công tác xây dựng đảng nói chung và công tác cán bộ nói riêng cũng còn nhiều bất cập, việc thực hiện dân chủ trong đảng và ngoài xã hội còn có nhiều biểu hiện hình thức v.v...
Có ý kiến cho rằng : “Đảng ta đông mà không mạnh” ! (Nguyễn Đình Hương, nguyên Trưởng ban bảo vệ chính trị nội bộ, nguyên Phó ban tổ chức Trung ương - Báo Người cao tuổi - 15/10/2010).
Trước thực trạng trên, vấn đề đặt ra là cần làm gì và làm thế nào để khắc phục cho được tình hình yếu kém đó nhằm củng cố lòng tin và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới ?
Rất nhiều việc cần làm trên nhiều lĩnh vực (chính trị, tư tưởng và tổ chức...) Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin đề cập một số điểm cụ thể sau đây :
1 - THÀNH LẬP CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
Quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng đất nước của Đảng ta là một quá trình hết sức vẻ vang : Đã giành và giữ được độc lập cho đất nước, đưa nhân dân ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu và đang tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hoá, đời sống ngày càng được nâng cao ...Tuy nhiên, cũng đã có những lúc phạm phải sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, nhất là từ sau ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan... trong đó có phần thuộc về đường lối nhưng cũng có cả phần thuộc về tổ chức thực hiện, như : gò ép đẩy nhanh tốc độ, quy mô hợp tác hoá, sáp nhập các tỉnh, huyện... thành những đơn vị hành chính và kinh tế lớn v.v...Hậu quả là đã kìm hãm sức sản xuất dẫn đến khủng hoảng và gây lãng phí nghiêm trọng. Sai lầm về đường lối là trách nhiệm của toàn Đảng, của Đại hội Đảng, còn trách nhiệm trong tổ chức thực hiện là thuộc về cơ quan chấp hành.
Từ những bài học kinh nghiệm lịch sử đó cho thấy cần có thêm nhiều giải pháp nhằm phát huy ưu điểm, kịp thời phát hiện và khắc phục sai lầm, khuyết điểm, không để gây hậu quả nghiêm trọng rồi mới kiểm điểm rút kinh nghiệm.
Có rất nhiều việc cần làm, một trong những việc quan trọng là về mặt tổ chức nên có một bộ phận giám sát ở cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng.
Nhiều khoá trước đây, trong quá trình chuẩn bị Đại hội, đã có ý kiến đề nghị UBKTTƯ nên do Đại hội bầu để có thẩm quyền cao hơn trong thực thi nhiệm vụ, nhất là đối với các đối tượng là thành viên trong BCHTƯ khi có dấu hiệu vi phạm, từ đó nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra. Tuy nhiên ý kiến này không được chấp nhận vì còn vướng nhiều vấn đề rất khó giải quyết. Chẳng hạn, nếu UBKTTƯ do Đại hội bầu ra, hoạt động độc lập với quyền hạn rất cao thì sẽ gây khó khăn cho công tác lãnh đạo của BCHTƯ, nhưng nếu do Đại hội bầu mà vẫn đặt dưới sự lãnh đạo của BCHTƯ thì lại rơi vào hình thức, vì không có thực quyền.
Vì vậy với quy định UBKT các cấp do cấp uỷ cùng cấp bầu ra như Điều lệ hiện hành là thích hợp hơn cả.
Song, nếu chỉ như thế vẫn sẽ tồn tại một khoảng trống với câu hỏi đặt ra là : Ai, cơ quan nào có quyền giám sát, kiểm tra BCHTƯ trong khi tất cả mọi tổ chức khác đều chỉ là cấp dưới ?
Chính vì lẽ đó, ở cấp Trung ương, ngoài UBKT do BCH bầu ra và lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đối với các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên...thì cần có một cơ quan giám sát của Đảng do Đại hội bầu ra để làm nhiệm vụ giám sát việc chấp hành nghị quyết của Đại hội. Điều này là tối cần thiết, nhất là trong điều kiện một đảng cầm quyền như ở nước ta hiện nay.
Phương án cụ thể xin đề xuất như sau :
Tên gọi có thể là : Uỷ ban giám sát Trung ương (UBGSTƯ)
Thành phần gồm những đồng chí không phải là thành viên trong BCHTƯ nhưng có tiêu chuẩn tương đương như UVBCT và UVTƯ kể cả các đồng chí đã nghỉ hưu mà còn sức khoẻ, minh mẫn và có uy tín cao, không hạn chế tuổi tác.
Đối tượng giám sát chủ yếu là BCHTƯ, BCT, BBT.
Nội dung giám sát tập trung vào một số vấn đề :
- Việc chấp hành Điều lệ Đảng và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đại hội trên các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, tổ chức cán bộ và kiểm tra.
- Thực hiện quy chế dân chủ trong đảng và nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong mối quan hệ với bộ máy Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc.
- Việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức của các UVTƯ, UVBCT (kể cả TBT).
- Tình hình đoàn kết nội bộ.
v.v...
Về thẩm quyền và phương pháp làm việc :
UBGSTƯ được tham dự các cuộc họp thường kỳ của BCHTƯ và BCT nhưng không tham gia thảo luận.
Thông qua việc giám sát, UBGSTƯ sẽ đưa ra những nhận xét, kiến nghị với BCT, BCHTƯ và yêu cầu được trả lời.
Khi cần thiết có thể tổ chức các cuộc hội nghị liên tịch giữa UBGSTƯ và BCHTƯ để thảo luận thống nhất. Trường hợp những kiến nghị của UBGSTƯ không được sự đồng thuận của BCHTƯ thì UBGSTƯ có quyền thông báo bằng văn bản ý kiến nhận xét và kiến nghị của mình đến tất cả các đại biểu của Đại hội. Đến Đaị hội giữa và cuối nhiệm kỳ, UBGSTƯ có báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trước Đại hội và đưa ra những kiến nghị cần thiết. Trong trường hợp thật đặc biệt có thể yêu cầu triệu tập Đại hội bất thường.
UBGSTƯ tổ chức gọn nhẹ, không có hệ thống dọc xuỗng các cấp dưới, không làm nhiệm vụ chỉ đạo hoạt động của UBKT và không có thẩm quyền thi hành kỷ luật đối với các tổ chức đảng và đảng viên mà chỉ đưa ra kiến nghị để BCHTƯ tham khảo.
Thực hiện phương án tổ chức này chắc chắn sẽ tạo điều kiện để mọi nghị quyết của Đại hội và Điều lệ Đảng được chấp hành nghiêm túc và chính xác hơn, góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa và kịp thời phát hiện sai lầm (nếu có), nhằm xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, củng cố lòng tin của đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.
2- GIỮ VỮNG VÀ TĂNG THÊM THẨM QUYỀN THI HÀNH KỶ LUẬT CỦA UBKT CÁC CẤP.
Sở dĩ nói “giữ vững” là bởi trong văn kiện dự thảo bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng tại Điều 36 đã nêu vấn đề : “nhiều ý kiến đề nghị cần sửa đổi thẩm quyền thi hành kỷ luật theo nguyên tắc : cấp nào quản lý, đề bạt, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý của cán bộ thì mới có thẩm quyền quyết định các hình thức kỷ luật đối với cán bộ đó”.
Không hiểu loại ý kiến này nhiều đến đâu, mới thoạt nghe thì thấy có vẻ có lý, song đó là loại ý kiến không phù hợp, vì nếu sửa đổi theo hướng đó có nghĩa là tước bỏ toàn bộ thẩm quyền thi hành kỷ luật của UBKT đối với đảng viên là cán bộ các cấp, làm giảm hiệu lực công tác của UBKT, chẳng những không có tác dụng tích cực mà trái lại còn có hại cho việc xây dựng đảng. Nếu nói về nguyên tắc “cấp nào quản lý, đề bạt, bổ nhiệm chức vụ... của cán bộ thì mới có quyền quyết định cách chức đối với cán bộ đó” thì không có gì phải bàn, vì đó là chuyện đương nhiên, và như thế không cần phải bổ sung sửa đổi gì thêm trong quy định của Điều lệ hiện hành.
Thẩm quyền thi hành kỷ luật của UBKT các cấp đã được Đại hội Đảng trao cho UBKT từ nhiều khoá (đặc biệt là từ khoá III) và qua nhiều nhiệm kỳ ngày càng được bổ sung theo hướng tăng thêm để theo kịp với tình hình phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu về công tác xây dựng Đảng. Điều lệ Đảng khoá X quy định : “UBKT từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và cấp uỷ viên cấp dưới trực tiếp”.
Quy định như trên là tương đối phù hợp. Không những thế còn có nhiều ý kiến cho rằng phải tăng hơn nữa thẩm quyền cho UBKT mới đáp ứng yêu cầu.
Trong khi toàn Đảng còn đang rất bức xúc về nhiều vấn đề tiêu cực, cần có một tổ chức chuyên trách vững mạnh là UBKT, có vị thế thuận lợi, có thẩm quyền cao theo hướng : “Tăng thẩm quyền cho UBKT các cấp” như kết luận của Bộ chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020 (số 72-KL/TƯ, ngày 17/5/2010)...thì ý kiến đề nghị bổ sung sửa đổi như trên là hoàn toàn trái chiều, có hại cho việc xây dựng đảng, không thể chấp nhận được.
3- THẬT SỰ DÂN CHỦ TRONG SINH HOẠT CỦA ĐẢNG
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng ta. Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc này chưa thực sự được coi trọng, nhất là về mặt dân chủ còn có những biểu hiện hình thức, hạn chế, không phát huy được sức mạnh của toàn Đảng thông qua việc khai thác và tập trung trí tuệ tập thể, đặc biệt là trong đại hội đảng các cấp. Hậu quả là khiến cho Đảng dễ rơi vào tình trạng bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới.
Vì vậy, ngay trong Đại hội toàn quốc của Đảng sắp tới cần phải thể hiện là một tấm gương mẫu mực về thực hành dân chủ trong Đảng. Muốn vậy cần :
a) Đổi mới quy chế làm việc của Đại hội sao cho thật sự dân chủ, tránh hình thức, chiếu lệ, chỉ cốt sao cho chương trình nghị sự đã được cấp uỷ chuẩn bị, các văn kiện dự thảo đã được công phu biên soạn...nhanh chóng được Đại hội nhất trí thông qua, mà không phải thay đổi nhiều, coi đó là thành công tốt đẹp? Không thể phủ nhận kết quả nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo của cấp uỷ và các cơ quan giúp việc, song không hẳn mọi vấn đề đều đã hoàn toàn chính xác, đầy đủ, không còn gì đáng bàn. Trái lại cần thực sự trân trọng tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của đảng viên và nhân dân, kể cả những ý kiến có vẻ như là “lạc lõng”, “trái chiều”... để nghiên cứu, thảo luận một cách nghiêm túc.
Trong báo cáo tổng hợp tình hình ý kiến của đảng viên và nhân dân tham gia đóng góp cho Đại hội phải nêu đầy đủ những ý kiến bổ sung hoặc khác với nội dung văn kiện dự thảo, kể cả những ý kiến thiểu số hoặc chỉ là cá biệt.
Nếu có đại biểu yêu cầu, Ban tổ chức Đại hội phải cung cấp đầy đủ những nội dung tài liệu lập luận của những ý kiến loại đó...
Bố trí nhiều thời gian thảo luận, tranh luận tại hội trường, bớt đi những bài diễn văn phát biểu dài dòng kể lể tình hình địa phương và ngành nhằm minh hoạ và biểu thị thái độ đồng tình với nội dung dự thảo văn kiện... mà dành nhiều thời gian để phát biểu, đề xuất những ý kiến cần thay đổi, bổ sung với những lý lẽ rõ ràng.
Việc lựa chọn những vấn đề cần thảo luận hoặc không thảo luận cũng phải được Đại hội biểu quyết, không phải do Chủ tịch đoàn quyết định, bởi lẽ Chủ tịch đoàn không phải là cơ quan lãnh đạo Đại hội mà chỉ là một bộ phận do đại hội cử ra để điều khiển chương trình làm việc đã được Đại hội thông qua, do đó không có quyền quyết định bất cứ vấn đề gì, nếu không được Đại hội giao. Kể cả những quyết nghị của BCHTƯ liên quan đến nội dung chương trình, thời gian và quy chế làm việc của Đại hội đều có thể thay đổi theo ý kiến của đa số đại biểu...
b) Đổi mới quy chế bầu cử để chọn được những người thật sự xứng đáng vào các cơ quan đầu não của Đảng. Tránh cách làm mang tính hình thức, lệ thuộc vào dự kiến nhân sự của Trung ương cũ. Do không tạo mọi điều kiện cần thiết để đại biểu hiểu rõ đối tượng mình bầu, nên đại biểu thiếu chủ động, không đề cao được trách nhiệm và quyền của đại biểu, ỷ lại vào sự chuẩn bị nhân sự của Trung ương, dẫn đến bầu theo cảm tính hoặc đơn giản hoá trách nhiệm của mình trong việc bầu cử : “cứ theo danh sách Trung ương cũ giới thiệu mà bầu”.
Việc công bố trước danh sách dự kiến của cấp uỷ cũ đã triệt tiêu luôn ý định ứng cử của những người nằm ngoài danh sách hoặc nếu có ai đề cử thì cũng kiên quyết xin rút vì cho rằng mình không thể có cơ hội trúng cử so với những người đã được Trung ương giới thiệu, và chỉ cần Chủ tịch đoàn đồng ý là được đưa ngay ra khỏi danh sách bầu cử. BCHTƯ có chuẩn bị trước danh sách dự kiến để giới thiệu, nhưng không nên công bố trước mà để các đại biểu tự ứng cử và đề cử trước. Sau khi tổng hợp lại, nếu thấy cần mới giới thiệu bổ sung thêm.
Những trường hợp được đề cử mà xin rút phải được Đại hội biểu quyết chấp thuận.
Danh sách bầu phải nhiều hơn số lượng cần bầu với một tỷ lệ thích đáng, cụ thể đối với BCHTƯ hoặc BCT phải hơn 30%, đối với Tổng bí thư phải có ít nhất 2 người.
Phải tạo điều kiện cho các đại biểu hiểu rõ đối tượng mình bầu, không chỉ có trích ngang lý lịch mà điều quan trọng là phải làm sao đánh giá được đúng đức, tài của cán bộ qua thực tiễn, những ưu điểm, nhược điểm, khuyết điểm trong quá trình sống và làm việc đã được thực tế chứng minh thông qua nhận xét, phát hiện của đảng viên và nhân dân, qua những nội dung phản ảnh của dư luận trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc tố cáo của đảng viên và nhân dân. Tất cả đều phải được thẩm tra, kết luận kịp thời, chính xác và phổ biến cho các đại biểu biết. Không nên giữ kín, vì Đại hội Đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, hoàn toàn có quyền được biết những thông tin liên quan đến trách nhiệm của đại biểu trong việc bầu cử.
Trước khi bỏ phiếu, các đại biểu có quyền nêu ý kiến chất vấn những người trong danh sách bầu cử, nếu có vấn đề chưa rõ và yêu cầu được trả lời (chương trình đại hội phải bố trí thời gian thích đáng cho việc chất vấn và trả lời chất vấn tại hội trường).
Trong phiên họp đầu tiên của BCHTƯ mới để bầu BCT cũng không nên công bố trước danh sách do BCH cũ dự kiến mà cứ để cho các UVTƯ ứng cử và đề cử, sau đó nếu thấy cần mới giới thiệu thêm. Người ứng cử phải tự giới thiệu về đạo đức, tài năng của bản thân. Người đề cử phải nói rõ lý do mà mình lựa chọn v.v...
4- BỔ SUNG NỘI DUNG DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ
a) Dự thảo công bố ngày 15/9/2010 có bổ sung phát triển điểm 7 mục XII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng so với bản công bố tháng 4/2010 nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Căn cứ kết luận của Bộ chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020 (số 72-KL/TƯ ngày 17/5/2010), căn cứ bài phát biểu của đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh chỉ đạo hội nghị tổng kết công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nhiệm kỳ 2006 - 2010 và căn cứ tình hình thực tiễn, xin đề nghị bổ sung điểm 7 mục XII như sau :
“ 7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Các cấp uỷ tiếp tục giáo dục, quán triệt nâng cao nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, thực hiện dân chủ, giữ gìn kỷ cương, giữ vững đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và trách nhiệm cán bộ chủ chốt, người đứng đầu; chú trọng kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc cụ thể hoá thể chế, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, việc cải cách hành chính, tư pháp, việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, công tác cán bộ; kiểm tra, giám sát những nơi thường dễ xẩy ra vi phạm, có dấu hiệu ban hành chính sách trái với nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. , bao che vi phạm cho cấp dưới; kiểm tra giám sát các tổ chức đảng ở các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước. Công tác kiểm tra giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Các cấp uỷ chỉ đạo xem xét, giải quyết các vụ việc bức xúc, nổi cộm tại địa phương, đơn vị mình; xử lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên có vi phạm.
Kiện toàn, tăng thẩm quyền, tạo điều kiện cho UBKT các cấp, tăng cường, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra để UBKT đáp ứng tốt hơn yêu cầu của tình hình mới.”
5- ĐIỀU CHỈNH MỘT SỐ TỪ NGỮ TRONG DỰ THẢO CƯƠNG LĨNH
a)Tại điểm 12 :
- Khổ thứ hai : “Tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”
Sửa thành : Tiếp thu tinh hoa nhân loại
Lý do : để phạm vi tiếp thu rộng hơn.
- Khổ thứ ba : “Công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra...”
Sửa thành : Công tác tuyên truyền, vân động, giáo dục, tổ chức, kiểm tra giám sát...”
Lý do : giáo dục mạnh hơn thuyết phục.
- Khổ thứ năm : “Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chốngchủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái...”
Sửa thành : Thường xuyên tự phê bình và phê bình, tăng cường kiểm tra, giám sát, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và mọi biểu hiện cơ hội, chia rẽ, bè phái...
Lý do : ở ta không có chủ nghĩa cơ hội; phải tăng cường kiểm tra, giám sát để đáp ứng yêu cầu mới.
- Khổ thứ năm : “Bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng”
Sửa thành : Bảo đảm dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. (bỏ đầy đủ).
b) Câu cuối cùng sửa thành : “Đảng kêu gọi tất cả đảng viên, toàn thể đồng bào trong nước và nước ngoài...”
Lý do : Để cho trong sáng tiếng Việt hơn./.
Vũ Quốc Hùng - Nguyên Ủy viên TW Đảng, nguyên Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy Ban Kiếm tra TW Đảng.