Qua gần 2 năm cùng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, việc triển khai, thực hiện Quy định số 04 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy, cũng được 100% các tỉnh triển khai nghiêm túc và đạt một số kết quả bước đầu.
Theo đó, Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành ủy đã kiện toàn, sắp xếp các phòng và tương đương thuộc ban, rà soát, bổ sung quy chế làm việc theo đúng tinh thần Quy định số 04 và sự thống nhất của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ. Hầu hết các ban tuyên giáo đều tuân thủ quy định 04 về mục tiêu sắp xếp, nhằm tinh giản bộ máy, biên chế cán bộ, hướng tới nâng cao chất lượng công tác tham mưu của các đơn vị chuyên môn. Có nhiều mô hình hay, hiệu quả, tinh gọn đã được áp dụng như ở Ban Giáo Bình Phước, Lâm Đồng…
Những kết quả đó đã giúp tổ chức, bộ máy của hệ thống Tuyên giáo từng bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả. Các cơ quan, đơn vị trong hệ thống tuyên giáo đã giảm đầu mối, giảm cấp phó, giảm cấp trung gian; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống từ Trung ương đến địa phương được rà soát, bổ sung, hoàn thiện, từng bước khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp; xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Không những tăng hiệu quả công tác, thực tiễn cũng cho thấy việc sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn gắn với tinh giản biên chế đã góp phần tiết kiệm chi thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại khá nhiều những bất cập, vướng mắc trong triển khai thực hiện.
CHƯA CÓ SỰ THỐNG NHẤT TRONG TỔ CHỨC, BỘ MÁY TUYÊN GIÁO CẤP TỈNH
Cấu trúc tổ chức bộ máy (cấu trúc) là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của một hệ thống, một đơn vị.
Trong những năm qua, Đảng ta thường xuyên quan tâm, ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” đến nay, cấu trúc tổ chức bộ máy của hệ thống tuyên giáo các địa phương ngày càng được kiện toàn, hoàn thiện trên cơ sở tinh giản theo hướng gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả cao. Tuy nhiên, do đặc thù riêng của từng địa phương nên việc sắp xếp cấu trúc tổ chức bộ máy ở các địa phương rất đa dạng, không thống nhất trong toàn quốc nên phần nào gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, liên hệ công tác, trao đổi kinh nghiệm giữa các ban tuyên giáo và giữa các đơn vị chuyên môn ở cấp Trung ương với cấp cơ sở.
Hiện nay, cấu trúc của Ban Tuyên giáo cấp tỉnh hoạt động theo mô hình: Trưởng ban => Phó Trưởng ban => Các phòng chuyên môn.
Tính đến tháng 6/2021, tổng số cán bộ tuyên giáo công tác tại 63 ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy trên cả nước là: 1.528 đồng chí (đạt 93% so với chỉ tiêu được phân bổ là 1.643 người). Trong đó Lãnh đạo cấp ban là 210 đồng chí; Lãnh đạo cấp phòng, chuyên viên và nhân viên là 1.318 đồng chí. Sau Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, phần lớn các ban đều có sự biến động về nhân sự, nhất là nhân sự lãnh đạo. Cho đến nay, các ban tuyên giáo đã thực hiện việc kiện toàn đội ngũ lãnh đạo ban, với 1 đồng chí trưởng ban và 2 đến 3 đồng chí phó trưởng ban.
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Quy định số 04-QĐi/TW, ngày 25/7/2018 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc tỉnh ủy, thành ủy; Ban Thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy đã ban hành Đề án về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị. Theo đó, ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy chú trọng thực hiện sắp xếp theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm tối đa đầu mối phòng (có địa phương giảm ½ đầu mối phòng so với trước khi tiến hành sắp xếp (như Yên Bái, Tuyên Quang, Bình Thuận); địa phương giảm ít nhất là 1 đầu mối phòng (như Thái Nguyên). Trong quá trình thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, các ban tuyên giáo đã làm tốt công tác tư tưởng, vận động cán bộ, đảng viên hiểu đúng tinh thần Nghị quyết, có nghiên cứu vận dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của cơ quan, từng bước đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn, chức danh, vị trí việc làm, chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, Quy định số 04-Qđi/TW ngày 25/7/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc tỉnh ủy, thành ủy chỉ nêu chung: “Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy xem xét quyết định có thể thành lập một số phòng chuyên môn của ban tuyên giáo tỉnh ủy như: Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng; phòng Tuyên truyền - Báo chí - Xuất bản; phòng Khoa giáo. Ngoài ra, theo tình hình thực tế địa phương, có thể lập thêm các phòng khác nhưng không quá 5 phòng”, nên khi thực hiện sắp xếp phòng, các tỉnh, thành ủy trên cả nước thực hiện không thống nhất, mỗi địa phương thực hiện một cách, cụ thể: 17 ban tuyên giáo có 3 phòng chuyên môn; 31 ban tuyên giáo có 4 phòng chuyên môn; 13 ban tuyên giáo có 5 phòng chuyên môn .
17 ban tuyên giáo có 3 phòng chuyên môn (Cao Bằng, Hải Dương, Bắc Kạn, Hòa Bình, Tuyên Quang, Lai Châu, Điện Biên, Đồng Nai, Bình Phước, BÌnh Thuận, Long An, Bình Dương, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu); 31 ban tuyên giáo có 4 phòng chuyên môn (Hà Nam, Bắc Giang, Hà Giang, Lào Cai, Nghệ An, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Phú Thọ, Hải Dương, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Sóc Trăng, Tây Ninh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Cà Mau, Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang); 13 ban tuyên giáo có 5 phòng chuyên môn (Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Sơn La, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Ninh,Hà Tĩnh, Đắk Lắc, Vĩnh Long, Cần Thơ); 2 ban tuyên giáo có 6 phòng chuyên môn (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh). |
Về đặt tên gọi các phòng: Phần lớn các tỉnh, thành phố đều thống nhất tên gọi 3 phòng theo Quy định 04: 49 ban tuyên giáo có Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng; 28 ban tuyên giáo có Phòng Tuyên truyền - Báo chí - Xuất bản; 27 ban tuyên giáo có Phòng Khoa giáo. Số còn lại được ghép không thống nhất, như: Một số ban tuyên giáo ghép khoa giáo với tổng hợp thành Phòng Khoa giáo Tổng hợp; ghép khoa giáo với văn hóa, văn nghệ thành Phòng Khoa giáo, Văn hóa, Văn nghệ; ghép khoa giáo với lịch sử Đảng thành Phòng Khoa giáo và Lịch sử Đảng. Một số ban tuyên giáo ghép thông tin với tổng hợp thành Phòng Thông tin Tổng hợp; ghép thông tin với tuyên truyền thành Phòng Thông tin Tuyên truyền; ghép thông tin với khoa giáo thành Phòng Thông tin Khoa giáo. Một số ban tuyên giáo ghép tuyên truyền với thông tin công tác tuyên giáo thành Phòng Tuyên truyền Thông tin công tác tuyên giáo. Một số ban tuyên giáo ghép văn hóa với dư luận xã hội thành Phòng Văn hóa và Dư luận xã hội… Một số ban tuyên giáo giữ nguyên Phòng Tổng hợp, Phòng Tuyên truyền, Phòng Dư luận xã hội, Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo…
Đến nay, tất cả các ban tuyên giáo đều đã thực hiện việc sắp xếp, kiện toàn các phòng chức năng, đảm bảo đủ số lượng lãnh đạo và chuyên viên cho mỗi phòng.
NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CẦN KHẮC PHỤC
Đến nay, tất cả các ban tuyên giáo đều thực hiện việc sắp xếp, kiện toàn các phòng chức năng, đảm bảo đủ số lượng lãnh đạo và chuyên viên cho mỗi phòng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ theo chức năng, nhiệm vụ của ban.
Về cơ bản, đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh trên cả nước được đào tạo cơ bản, đảm bảo về số lượng, chất lượng, cơ cấu; có trình độ lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu; luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, giữ vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phần lớn cán bộ tuyên giáo có kinh nghiệm, am hiểu các lĩnh vực công tác tuyên giáo; có ý thức trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo; có ý tưởng nâng cao chất lượng công tác, đổi mới nội dung, phương pháp trong quá trình triển khai thực hiện các lĩnh vực công tác tuyên giáo, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương. Cán bộ trong độ tuổi từ 31 đến 40 tuổi chiếm số lượng lớn (42,45%) cho thấy, số này còn có thời gian công tác dài, đang trong thời kỳ sung sức và đạt độ “chín” để cống hiến. Tỷ lệ cán bộ nam, nữ không có sự chênh lệch lớn (nam 50,3%, nữ 49,7%). Cán bộ lãnh đạo tương đối trẻ, năng động, sáng tạo, đã kinh qua nhiều vị trí công tác nên công tác chỉ đạo, điều hành quản lý vững vàng.
Những kết quả trên đã giúp tổ chức, bộ máy của hệ thống Tuyên giáo từng bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả. Các cơ quan, đơn vị trong hệ thống tuyên giáo đã giảm đầu mối, giảm cấp phó, giảm cấp trung gian; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống từ Trung ương đến địa phương được rà soát, bổ sung, hoàn thiện, từng bước khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp; xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Không những tăng hiệu quả công tác, thực tiễn cũng cho thấy việc sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn gắn với tinh giản biên chế đã góp phần tiết kiệm chi thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển.
Tuy nhiên, theo đánh giá thực trạng, có thể thấy, cấu trúc tổ chức bộ máy của các ban tuyên giáo cấp tỉnh chưa có sự đồng bộ, thống nhất (số lượng phòng chuyên môn, tên phòng không thống nhất) dẫn đến sự không đồng bộ trong cả nước. Vấn đề này phần nào gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, liên hệ công tác, trao đổi kinh nghiệm giữa các ban tuyên giáo; sự chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn và phối hợp giữa các vụ, đơn vị chức năng của Ban Tuyên giáo Trung ương với các phòng của ban tuyên giáo các tỉnh, thành ủy khó thống nhất, chồng chéo. Sự sắp xếp tổ chức bộ máy ban tuyên giáo mới chỉ chú ý đến tinh giảm đầu mối cơ học, chưa chú ý đến chất lượng tham mưu. Mặc dù đã có tinh gọn hơn so với trước khi có Nghị quyết 18, Quy định 04, song tính hiệu lực, hiệu quả trong thực tế chưa cải thiện được nhiều.
Hiện nay, ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy không có bộ phận văn phòng, tuy nhiên, chức năng, nhiệm vụ của văn phòng cơ quan không thay đổi; việc bố trí nhiệm vụ này cho cán bộ, công chức các phòng kiêm nhiệm thực hiện gặp nhiều khó khăn, do vừa thực hiện nhiệm vụ chuyên môn vừa thực hiện nhiệm vụ của văn phòng về tổ chức cán bộ, hành chính - quản trị, tổng hợp, văn thư của cơ quan nên khối lượng công việc nhiều gây khó khăn, áp lực, thủ tục hành chính rườm rà dẫn đến có lúc công việc bị dồn ép, chồng chéo, thiếu tính chủ động, mất nhiều thời gian cho các thủ tục hành chính, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác chuyên môn.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Thứ nhất, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu quả”, nhiều tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương đã triển khai việc sắp xếp lại tổ chức, bộ máy của các cơ quan tham mưu giúp việc, trong đó có ban tuyên giáo. Tuy nhiên, do đặc thù riêng của từng địa phương nên việc sắp xếp tổ chức, bộ máy và giao biên chế đối với ban tuyên giáo cấp tỉnh giữa các địa phương khác nhau, không thống nhất trong toàn quốc nên phần nào gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, liên hệ công tác, trao đổi kinh nghiệm giữa các ban tuyên giáo; sự chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn và phối hợp giữa các vụ, đơn vị chức năng của Ban Tuyên giáo Trung ương với các phòng của ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy khó thống nhất, chồng chéo; việc triển khai công tác chuyên môn từ Ban Tuyên giáo Trung ương về ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy khó thực hiện vì các lĩnh vực chuyên môn không thống nhất, gây lúng túng cho địa phương.
Thứ hai, Quy định 04 của Ban Bí thư giao “Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy xem xét quyết định có thể thành lập một số phòng chuyên môn của ban tuyên giáo tỉnh ủy như: Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng; phòng Tuyên truyền - Báo chí - Xuất bản; phòng Khoa giáo. Ngoài ra, theo tình hình thực tế địa phương, có thể lập thêm các phòng khác nhưng không quá 5 phòng; Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh được lập không quá 6 phòng”, nên khi thực hiện sắp xếp, các tỉnh ủy, thành ủy trên cả nước thực hiện không thống nhất về số phòng, tên phòng.
Hiện nay, ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy trong cả nước, sự ghép lập giữa các phòng với nhau còn nặng tính cơ học, hành chính, ít tính tích hợp về lĩnh vực chuyên môn chưa phát huy được ưu thế các lĩnh vực tham mưu nên dẫn đến việc hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn còn bất cập, như khi tổ chức tập huấn, hội họp, hội thảo, đào tạo, bồi dưỡng,…
Thứ ba, hiện nay ở ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy không còn bộ phận văn phòng, tuy nhiên, chức năng, nhiệm vụ của văn phòng cơ quan không thay đổi; việc bố trí nhiệm vụ này cho cán bộ, công chức các phòng kiêm nhiệm thực hiện gặp nhiều khó khăn, do vừa thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, vừa thực hiện nhiệm vụ của văn phòng về tổ chức cán bộ, hành chính, tài chính, quản trị, tổng hợp, văn thư của cơ quan nên khối lượng công việc nhiều gây khó khăn, áp lực, thủ tục hành chính rườm rà dẫn đến có lúc công việc bị dồn ứ, chồng chéo, thiếu tính chủ động, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác chuyên môn.
Thứ tư, quá trình sắp xếp các phòng ở hầu hết các ban tuyên giáo tỉnh, thành uỷ chưa đảm bảo nguyên tắc tối thiểu có 5 người mới thành lập phòng, phòng có dưới 10 người được bố trí trưởng phòng và 1 phó trưởng phòng; có từ 10 người trở lên được bố trí 2 phó trưởng phòng. Trong thực tế, khi sắp xếp đầu mối bên trong chỉ giảm trưởng phòng, còn nhiều địa phương vẫn giữ nguyên cấp phó cho đến thời gian quy định mới sắp xếp lại.
Thứ năm, về thực hiện chế độ, chính sách cho cán bộ trong diện sắp xếp cũng không giống nhau, trường hợp từ trưởng phòng, sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, có nhiều đồng chí từ trưởng phòng xuống phó phòng và từ phó phòng xuống chuyên viên, thậm chí có nơi từ trưởng phòng xuống chuyên viên. Có nơi được bảo lưu các khoản phụ cấp hết nhiệm kỳ bổ nhiệm, có nơi không được bảo lưu. Bên cạnh đó, có những trường hợp chuyển về phòng mới, không còn chức vụ, phân công không đúng chuyên môn, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức và hiệu quả công việc.
XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY HỆ THỐNG TUYÊN GIÁO TINH GỌN, HIỆU QUẢ
Trên cơ sở phân tích khoa học về thực trạng cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống tuyên giáo cấp tỉnh, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế và những bất cập, Ban Chủ nhiệm Đề án đề xuất các phương án sắp xếp, thống nhất số phòng và tên phòng theo phương án để đảm bảo các phòng bao trùm được các lĩnh vực tuyên giáo.
Do đặc điểm tình hình của từng địa phương có sự khác nhau, dẫn đến mức độ, số lượng công việc của ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy có sự khác nhau. Để có thể thống nhất tổ chức bộ máy nhưng đồng thời vẫn đảm bảo cho ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy đều thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, cần xem xét sửa lại nội dung này trong Quy định 04 theo hướng cho phép khác nhau về số lượng biên chế, còn số lượng phòng chuyên môn đều phải như nhau, đề xuất theo hướng “tối thiểu từ 3 đến 5 người mới thành lập đầu mối cấp phòng”,... Địa phương nào dân số đông, tình hình phức tạp, nhiều việc, ban tuyên giáo tỉnh ủy được giao nhiều biên chế thì các phòng chuyên môn thuộc ban tuyên giáo tỉnh ủy địa phương đó được phép có nhiều biên chế hơn ban tuyên giáo tỉnh ủy những tỉnh, thành nhỏ, ít phức tạp hơn. Tuy nhiên, số lượng phòng, tên phòng, chức năng, nhiệm vụ của từng phòng giữa các ban tuyên giáo tỉnh ủy tỉnh này với các tỉnh, thành khác đều phải giống nhau.
Tổng hợp kết quả phiếu khảo sát của Đề án, có tới 67% ý kiến cho rằng mô hình tổ chức của ban tuyên giáo các địa phương nên thống nhất là 4 phòng bao gồm: (1). Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng; (2). Phòng Tuyên truyền - Báo chí - Xuất bản (bao gồm lĩnh vực báo cáo viên và tuyên truyền miệng, dư luận xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng); (3). Phòng Khoa giáo và Văn hóa - Văn nghệ; (4). Phòng Tổng hợp (bao gồm lĩnh vực thông tin đối ngoại và tuyên truyền biển đảo, biên giới cắm mốc; dư luận xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và công tác tổ chức, hành chính).
Riêng đối với Ban Tuyên giáo Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hầu hết các ý kiến được hỏi cũng thống nhất mô hình 5 phòng như sau: (1). Phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng; (2). Phòng Tuyên truyền - Báo chí - Xuất bản (bao gồm lĩnh vực báo cáo viên và tuyên truyền miệng); (3). Phòng Khoa giáo;(4). Phòng Văn hóa - Văn nghệ;(5). Phòng Thông tin - Tổng hợp (bao gồm lĩnh vực thông tin đối ngoại và tuyên truyền biển đảo, biên giới cắm mốc; dư luận xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và công tác tổ chức, hành chính).
Đề án đã tổ chức điều tra,
phát ra 350 phiếu khảo sát đối với Ban lãnh đạo, các trưởng, phó phòng của 63
ban tuyên giáo các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương.
Kết quả tổng hợp từ phiếu khảo sát là cơ sở thực tiễn để đề án nghiên cứu, đề xuất mô hình tổ chức bộ máy của ban tuyên giáo các tỉnh/thành uỷ, theo hướng tinh gon, hiệu lực, hiệu quả.
|
TS. Phạm Thanh Cẩm,
Q.Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ,
Ban Tuyên giáo Trung ương
______________________________
(*) Bài viết sử dụng các dữ liệu của Đề án “Kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống tuyên giáo theo hướng tinh gọn, hiệu quả”