Thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, để nền kinh tế thị trường có thể vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa như mô hình mà chúng ta đang kiên trì theo đuổi, thì phải chế định khung pháp lý đầy đủ cho sự vận hành các loại thị trường của nó; trong đó 5 thị trường chính yếu phải được phát triển đồng bộ, với một hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động một cách chặt chẽ.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần bám sát yêu cầu của thực tiễn
Nếu nhìn xuyên suốt gần 30 năm từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, việc hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. Sự thừa nhận tồn tại 5 thành phần kinh tế ở miền Nam tại Đại hội V của Đảng (năm 1982), nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần tại Đại hội VI (năm 1986), mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ Đại hội VII (năm 1991) đến Đại hội XI (năm 2011) thực sự là một quá trình xuất phát và bám sát yêu cầu của thực tiễn. Trong quá trình đó, Thành phố Hồ Chí Minh đã có lúc tham gia “xé rào” nhưng cũng không ít thời điểm bị “thổi còi” vì những sáng tạo “hợp tình nhưng không hợp lý”. Thực tiễn đời sống Thành phố Hồ Chí Minh đã minh chứng một yêu cầu tất yếu: nền sản xuất hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế là con đường để giải phóng lực lượng sản xuất ở nước ta, trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu tiến hành công nghiệp hóa.
Thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, để nền kinh tế thị trường có thể vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa như mô hình mà chúng ta đang kiên trì theo đuổi, thì phải chế định khung pháp lý đầy đủ cho sự vận hành các loại thị trường của nó; trong đó 5 thị trường chính yếu phải được phát triển đồng bộ, với một hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động một cách chặt chẽ.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đã xác định yêu cầu xây dựng và hoàn thiện đồng bộ 5 loại thị trường: thị trường hàng hóa, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động và thị trường khoa học - công nghệ. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định ở Đại hội X và Đại hội XI. Nhưng trên thực tế, việc hoàn thiện thể chế vận hành cho 5 loại thị trường trên luôn luôn bất cập và thiếu đồng bộ. Những con số về chứng khoán rồi bất động sản để lại những di chứng nặng nề cho nền kinh tế là những minh chứng thực tế. Ở đây nổi lên vấn đề là sự thiếu phân định rõ ràng và đúng đắn giữa vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường.
Chúng ta thiếu công cụ về chính sách và pháp luật để hạn chế 3 khuyết tật (mặt trái) của thị trường. Đến nay, mọi người đều thừa nhận mô hình kinh tế thị trường là mô hình phân bố tốt nhất về nguồn lực, nhưng bản thân nó có 3 khuyết tật: 1- Luôn có nguy cơ mất cân đối cung - cầu, tạo ra các cuộc khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu; 2- Vì mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích toàn cục, lợi ích cộng đồng (gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn tránh pháp luật, gian lận thương mại...); 3- Kinh tế thị trường về bản chất là mô hình làm giàu cho thiểu số; tự nó không thể làm giàu cho mọi người.
Từ nhận thức như vậy, ngay từ đầu, Thành phố Hồ Chí Minh đã đề ra phương hướng phát triển của Thành phố là gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; phát triển kinh tế đồng thời phát triển văn hóa để trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện trong chiến lược và các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Những thành quả về giảm nghèo bền vững, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, các chương trình đầu tư cho nông thôn, hỗ trợ tín dụng cho người sản xuất nông nghiệp, lập các quỹ hỗ trợ vốn, tạo việc làm cho người nghèo... mà Thành phố kiên trì thực hiện trong nhiều năm đều hướng tới mục tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội. Đến cuối năm 2013, Thành phố chỉ còn 0,8% số hộ nghèo theo mức thu nhập 12 triệu đồng/người/năm và Thành phố vừa nâng mức xác định diện hộ nghèo lên thu nhập thực tế 16 triệu đồng/người/năm - mức phổ biến của thế giới là 2 USD/người/ngày - hiện có khoảng 5,4% số hộ dân, để phấn đấu đẩy mạnh giảm nghèo trong năm nay và những năm tiếp theo.
Từ việc bám sát thực tiễn và sự nhận thức bản chất của thị trường như trên, một vấn đề rất sáng rõ, rất có cơ sở là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước trong việc hạn chế tác động tiêu cực của 3 khuyết tật của thị trường nêu trên, bằng việc hoàn thiện 5 nhóm công cụ quản lý đã và đang được sử dụng: 1- Hệ thống pháp luật cho các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế; 2- Công tác kế hoạch và quy hoạch, nhằm hoạch định các mục tiêu và xác lập các phương tiện để đạt các mục tiêu đề ra; 3- Các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; 4- Sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để bổ khuyết thị trường (trong đó quan trọng nhất là các loại dự trữ quốc gia); 5- Cung cấp dịch vụ và hàng hóa công cộng; hành chính công; sử dụng các công cụ hỗ trợ, như thông tin, xúc tiến thương mại, cung cấp các dịch vụ sản xuất...
Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rằng dù quy mô kinh tế của Thành phố chiếm hơn 1/5 nền kinh tế đất nước, đóng góp 30% nguồn thu ngân sách quốc gia, mức thu nhập dân cư bình quân gấp hơn 2,5 lần mức chung của cả nước,... nhưng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh luôn là một bộ phận cấu thành cơ cấu kinh tế của cả nước; sự năng động, sáng tạo của Thành phố không thể thay thế sự đổi mới về chính sách, thể chế kinh tế chung của cả nước.
Mặc dù từ khi có Nghị quyết số 20-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2002) đã cho phép Thành phố áp dụng nhiều cơ chế đặc thù để có thể huy động nguồn lực cho sự phát triển: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, phân cấp mạnh hơn cho Thành phố, cho phép Thành phố được thực hiện thí điểm đối với những vấn đề mới phát sinh mà thực tiễn Thành phố đặt ra trong quá trình phát triển, nhưng chưa có quy định hay những quy định hiện hành của Nhà nước không phù hợp…”; nhưng thực tế hơn 10 năm qua, để thực hiện nội dung trên Thành phố vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn làm hạn chế sự năng động, sáng tạo vốn có của người dân Thành phố. Do đó, Đảng bộ và nhân dân Thành phố kỳ vọng rằng sau lần tổng kết 30 năm đổi mới này sẽ có bước đột phá về mặt chính sách và thể chế để Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và các địa phương trong cả nước nói chung có điều kiện phát huy tính năng động, sáng tạo, huy động cao nhất mọi nguồn lực cho sự phát triển, mà vẫn bảo đảm được tính thống nhất của một Nhà nước đơn nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về lĩnh vực kinh tế, tồn tại lớn nhất của Thành phố Hồ Chí Minh là cơ cấu kinh tế thiếu cạnh tranh, đang đối diện với thách thức trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Vấn đề chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng cạnh tranh của địa phương tùy thuộc phần lớn vào chính sách vĩ mô, mà sự năng động, sáng tạo của địa phương chỉ là một phần. Thách thức về quản lý đô thị lớn nhất của Thành phố Hồ Chí Minh là sự bất cập giữa trình độ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội với tốc độ tăng trưởng kinh tế và yêu cầu cải thiện dân sinh. Vấn đề này liên quan đến đẩy mạnh phân cấp theo hướng tăng cường tính tự chủ cho chính quyền địa phương, đặc biệt là chính quyền đô thị trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực ngân sách. Hai vấn đề trên chính là các vấn đề mà Đảng bộ và chính quyền Thành phố quan tâm hàng đầu và kỳ vọng vào tiến trình đổi mới trong những năm tới.
Tiếp tục phát triển cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần và nhận thức đúng về vai trò của kinh tế nhà nước
Sự phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh gắn liền và phản ánh quá trình đổi mới của nước ta. Từ thực tiễn gần 30 năm đổi mới cho thấy, sự tồn tại và phát triển của một cơ cấu kinh tế đa thành phần là tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sản xuất hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường là ba bộ phận không thể tách rời trong quá trình huy động các nguồn lực của đất nước vào thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy sức sống mạnh mẽ của các thành phần kinh tế dân doanh ngay cả trong thời kỳ khi mà chính sách và pháp luật muốn hạn chế nó. Thời kỳ trước đổi mới các thành phần kinh tế “phi xã hội chủ nghĩa” đã tự biến dạng để thích nghi với cơ chế và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa mà chúng ta thực thi trong thời điểm đó. Nhiều tổ chức kinh tế mang các hình thức, như tổ sản xuất, tổ hợp tác sản xuất, thậm chí hợp tác xã ra đời trong giai đoạn 1980 - 1990 là sự “núp bóng” của khu vực kinh tế tư nhân. Từ sau Đại hội V của Đảng (năm 1982) với sự thừa nhận miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế và đặc biệt từ sau Đại hội VI, khu vực kinh tế tư nhân, dù tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có sức sống mạnh mẽ. Có thể nói sự đa dạng hóa sở hữu và thành phần kinh tế là động lực chính yếu thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh suốt gần 30 năm qua.
Đến nay, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 445 doanh nghiệp nhà nước; 367 hợp tác xã; 8.379 doanh nghiệp tư nhân; 78.266 công ty trách nhiệm hữu hạn; 414 công ty cổ phần; 2.757 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cùng hơn 250 ngàn hộ sản xuất, kinh doanh cá thể trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đang hoạt động (số liệu thống kê đến ngày 31-12-2011) và khu vực dân doanh đã chiếm đến gần 59% cơ cấu GDP trên địa bàn và là khu vực kinh tế có sự năng động nhất, đóng góp lớn nhất vào sự phát triển của Thành phố.
Với động thái phát triển của các thành phần kinh tế trong gần 30 năm qua đã minh chứng sự đúng đắn trong chủ trương khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, xem các thành phần kinh tế là bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu nền kinh tế nước ta và thiết lập cơ chế, môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tuy khu vực doanh nghiệp nhà nước có biến động giảm liên tục trong suốt gần 30 năm qua trong cơ cấu kinh tế trên địa bàn; các khu vực ngoài nhà nước, kể cả đầu tư nước ngoài tăng liên tục và ngày càng có tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP, cơ cấu lao động...; nhưng các nguồn thu của Nhà nước tiếp tục gia tăng mạnh mẽ, tạo điều kiện vật chất tốt hơn cho Nhà nước thực hiện các chính sách về an sinh xã hội, làm tốt hơn vai trò của Nhà nước trong quản lý và phát triển kinh tế. Thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, để ổn định kinh tế vĩ mô không nhất thiết phải có nhiều doanh nghiệp nhà nước ở tất cả các lĩnh vực, mà doanh nghiệp nhà nước chỉ cần có ở các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, hoạt động thật hiệu quả và Nhà nước sử dụng đồng thời nhiều công cụ để điều tiết thị trường. Ví dụ điển hình nhất là trong giai đoạn 2010 - 2013, Thành phố Hồ Chí Minh đã sử dụng cơ chế bình ổn thị trường, cơ chế hỗ trợ tín dụng, các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tăng cung hàng hóa đáp ứng nhu cầu vào các cao điểm tiêu dùng, phát triển hệ thống bán lẻ với vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể,... Nhờ đó, đã kiểm soát được tốc độ tăng giá trên địa bàn Thành phố luôn thấp hơn tốc độ tăng giá so với giá trong cả nước, bằng 3/4 mức tăng CPI 3 năm qua của cả nước.
Cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy:
- Sự đa dạng hóa sở hữu và thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân chính là động lực để phát triển kinh tế và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương trong cả nước có sự thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhưng trong cơ cấu kinh tế nguồn nội lực vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu về cơ cấu giá trị và cơ cấu lao động. Trong gần 30 năm qua, tuy lực lượng sản xuất có sự phát triển đáng kể, nhưng thành phần kinh tế cá thể (hộ sản xuất, kinh doanh công nghiệp, thương mại, dịch vụ) vẫn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn Thành phố. Đây là thành phần kinh tế hoạt động tương đối ổn định, ngay trong những năm nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của suy giảm kinh tế thế giới và trong nước.
- Mặc dù khu vực doanh nghiệp nhà nước thu hẹp dần về mặt tỷ trọng, nhưng chất lượng, hiệu quả tăng lên và không làm giảm vai trò của Nhà nước trong việc định hướng sự phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Sự tập trung của Đảng bộ, chính quyền Thành phố vào việc phát triển các doanh nghiệp nhà nước công ích và xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật và xã hội là chủ trương đúng đắn để củng cố và phát triển vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường.
Tóm lại, sự phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra phù hợp với định hướng và chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với sự vận động khách quan của kinh tế thị trường và đang nâng dần vị trí và vai trò của Thành phố trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Từ thực tiễn trên đây đặt ra yêu cầu là cần nhận thức rõ hơn, đúng hơn về vai trò của Nhà nước và kinh tế nhà nước, trong đó có doanh nghiệp nhà nước trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới mạnh mẽ về mặt thể chế để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Từ năm 1991 đến 2010, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo đường lối của Đảng, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong rất ít địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 2 con số trong suốt 20 năm. Nhờ tăng trưởng kinh tế cùng với sự kiên trì thực hiện phương châm phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, với phát triển văn hóa và gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị nên Thành phố ngày càng khang trang, hiện đại, tổng sản phẩm nội địa tính theo đầu người tiếp cận mức 5.000 USD/năm vào năm 2014. Tuy nhiên, là một bộ phận của nền kinh tế của cả nước và với vị trí, vai trò của mình, Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rằng để trở thành một đô thị văn minh, hiện đại, có vị trí xứng đáng và ngang tầm với các đô thị lớn trong khu vực thì còn rất nhiều thách thức ở phía trước. Từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, để đạt được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc đổi mới cơ chế kinh tế, cải cách mạnh mẽ nền hành chính và tài chính quốc gia, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và thuận lợi trong mọi thành phần kinh tế; hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh phù hợp với những yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là những yêu cầu rất bức xúc trong tiếp tục sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Từ những vấn đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho thấy, thách thức lớn nhất của đất nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa là nền kinh tế sẽ dễ bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, nếu như nền kinh tế nước ta không đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 7% - 8% một năm liên tục trong vòng 20 - 30 năm tới. Trên cơ sở tiềm năng, vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; tận dụng thời cơ của quá trình hội nhập và sức mạnh của kinh tế tri thức, cần đổi mới mạnh mẽ về mặt thể chế để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây có lẽ là nhiệm vụ trọng yếu đối với việc tổng kết 30 năm sự nghiệp đổi mới đất nước./.
Nguyễn Văn Đua
Nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
Theo TCCS