Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc ta, 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975) là một giai đoạn rất vẻ vang. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn quân và toàn dân ta đã đoàn kết một lòng, kiên quyết kháng chiến, đánh thắng hai đế quốc lớn mạnh là Pháp và Mỹ, kết thúc thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối, bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia, đưa cả nước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lịch sử chống ngoại xâm, giữ gìn non sông, bờ cõi của các thế hệ người Việt Nam không chỉ là truyền thống vẻ vang, rất tự hào mà còn để lại cho thế hệ mai sau những bài học kinh nghiệm quý báu về kế sách giữ nước. Đó là di sản tinh thần vô giá của dân tộc mà các thế hệ hôm nay và mai sau luôn phải có trách nhiệm giữ gìn và phát huy để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, "sánh vai với các cường quốc năm châu", như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Chiến thắng này góp phần quyết định đập tan hoàn toàn dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh ở Đông Dương, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, góp phần quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đánh giá: "Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử"(1). "Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định bị thất bại; cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công"(2).
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết chiến, quyết thắng và sức mạnh của Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân 3 nước Đông Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế.
Chiến công đó tô thắm thêm truyền thống vẻ vang: "Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày quân và dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", nhưng ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, mà trái lại, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát huy truyền thống Điện Biên Phủ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Quân đội ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhân dân nuôi dưỡng, chở che, đùm bọc, tận tình giúp đỡ, đã vượt qua những thử thách lớn lao chưa từng có, không nề gian khổ, hy sinh, lập nên những "Điện Biên Phủ" mới trên chiến trường, đặc biệt là Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cùng toàn Đảng, toàn dân hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Phát huy khí thế chiến thắng Điện Biên Phủ, vận dụng những bài học lịch sử quý báu trong điều kiện mới, Quân đội nhân dân Việt Nam quyết tâm mài sắc ý chí chiến đấu, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tăng cường đoàn kết, thống nhất, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn, không ngừng rèn luyện, kiên quyết làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp khó lường. Xu thế chung của toàn cầu là đối thoại và hợp tác, nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ khủng bố, xung đột, mất ổn định. Các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố; những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo đang diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Kinh tế thế giới đang trong cơn suy thoái nghiêm trọng nhất trong vòng 80 năm trở lại đây, ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế của hàng tỉ người trên trái đất. Sự cạnh tranh về kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước lớn đang tăng lên và ngày càng thêm gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, ma túy, dịch bệnh, buôn lậu vũ khí..., đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phải phối hợp giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nghèo ngày càng tăng.
Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, làm cho thế và lực của Việt Nam lớn mạnh không ngừng, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Việc mở rộng quan hệ hợp tác, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế thế giới, giữ vững môi trường hòa bình đã tạo thêm thuận lợi trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những mặt thuận lợi, đất nước ta cũng đang đứng trước những thách thức lớn. Các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền và các vấn đề tự do tôn giáo, dân tộc để can thiệp và đẩy mạnh hoạt động kích động, lôi kéo, mua chuộc các phần tử cơ hội, bất mãn hòng gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần môi trường hòa bình, ổn định. Bởi vậy, trong khi ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) đã xác định rõ nhiệm vụ chung về quốc phòng, an ninh là: "Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ". "Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, luôn được nhân dân tin cậy, yêu mến"(3).
Nhiệm vụ trên đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam - lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổquốc, phải thấu triệt những quan điểm cơ bản của Đảng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh, hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng mà Đảng, Nhà nước giao phó. Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; giữ vững và tăng cường hơn nữa bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội; thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên; nâng cao hiệu quả các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; quán triệt sâu sắc và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị; nâng cao bản lĩnh chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ; phát huy truyền thống cách mạng, chủ nghĩa anh hùng, ý chí quyết chiến quyết thắng, phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người quân nhân cách mạng, của "Bộ đội Cụ Hồ"; bảo đảm cho Quân đội ta luôn kiên định, vững vàng về chính trị, sẵn sàng chiến đấu cao, phòng chống có hiệu quả mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, chủ động đối phó thắng lợi với mọi tình huống có thể xảyra.
Âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động trong nước và ở nước ngoài rất thâm độc, xảo quyệt. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, Quân đội nhân dân Việt Nam phải thường xuyên theo dõi sát sao, nghiên cứu và dự báo diễn biến tình hình quốc tế, khu vực, trong nước; đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; tham mưu với Đảng, Nhà nước về đường lối, chủ trương giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tăng cường phòng thủ; luôn luôn duy trì nghiêm ngặt chế độ thường trực, sẵn sàng chiến đấu cao, không để bị động, bất ngờ; phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân và các lực lượng khác giữ vững ổn định chính trị - xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biên giới đất liền, biển đảo của Tổ quốc; tích cực, chủ động triển khai các biện pháp nhằm ngăn chặn kịp thời các âm mưu, hoạt động xâm nhập, phá hoại của bọn phản động quốc tế, tuyệt đối không để chúng móc nối, cấu kết với các tổ chức, phần tử phản động trong nước chống phá công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Sức mạnh của Quân đội ta là kết tinh của nhiều nhân tố. Cần tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng tổng hợp, tăng cường khả năng và sức mạnh sẵn sàng chiến đấu, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là đội quân cách mạng, trung thành tuyệt đối với Đảng, hiếu nghĩa với nhân dân; chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Tiếp tục điều chỉnh tổ chức, bố trí lực lượng hợp lý, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ; giữa lục quân và các quân chủng, binh chủng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Không ngừng đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện; coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu. Đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, khai thác và phát triển nghệ thuật quân sự dân tộc đặc sắc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự thế giới và những thành tựu khoa học- công nghệ tiên tiến, nâng cao hơn nữa sức mạnh chiến đấu tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân nhằm đối phó và đánh bại chiến tranh công nghệ cao. Tiếp tục thực hiện tốt Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đạt kết quả thiết thực, chuyển mạnh sang làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ nhằm tạo sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức và ý thức tự giác của bộ đội. Đẩy mạnh các phong trào thi đua quyết thắng và hoạt động của các tổ chức quần chúng với nội dung, hình thức phong phú, hướng mạnh về cơ sở.
Quân đội nhân dân Việt Nam từ ngày thành lập đến nay luôn làm tròn chức năng là đội quân chiến đấu, công tác và lao động sản xuất. Chức năng đó cần tiếp tục được thực hiện tốt hơn nữa và sát hợp với thực tiễn. Hằng năm, đất nước ta luôn phải chống chọi với nhiều thiên tai như bão lụt, hạn hán. Quân đội ta là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ phòng, chống và nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, cứu hộ, cứu nạn cũng như phòng, chống hỏa hoạn, cháy rừng.
Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cần không ngừng xây dựng và tăng cường nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc, nâng cao tiềm lực quốc phòng của đất nước; tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng cho các đối tượng. Tổ chức rút kinh nghiệm và nâng cao chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng khu kinh tế - quốc phòng trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, Tây, Tây Nam và biển đảo phía Đông, tạo thế trận quốc phòng - an ninh, bảo vệ toàn vẹn vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân", quốc phòng toàn dân thêm vững chắc.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là hết sức trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tăng cường quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân ngày càng vững mạnh nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đánh bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, phản động quốc tế và trong nước, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước. Toàn quân ta phải kiên định tư tưởng và phương châm chỉ đạo trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc: xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện; phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời tích cực tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ độc lập dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.
Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng kiên cường, bất khuất của dân tộc, đặc biệt là những thắng lợi mang tầm vóc quyết định trong Đông Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 13-3 đến 7-5-1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam nhất định sẽ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới./.
Phùng Quang Thanh
Đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
(Theo Tạp chí Cộng sản điện tử)
(1) (2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t 11, tr 261, 266
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 108-109