Trong sự nghiệp Giáo hội Phật giáo Việt Nam, có một người trong giới Tăng ni, Phật tử từng là một người yêu nước hiếm có, một đảng viên gan dạ, trung kiên đã từng đương đầu với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ từ trong nhà tù Côn Đảo. Đó là Sư Thiện Chiếu - pháp danh là Nguyễn Văn Giảng hay Nguyễn Văn Tài, bút hiệu Xích Liên.
Sư Thiện Chiếu từng là chí sĩ chống thực dân Pháp, và là nhà văn, nhà cải cách Phật giáo nổi tiếng ở Sài Gòn và miền Nam. Ông cũng là nhà sư đầu tiên tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội - tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau khi Đảng ta được thành lập, chính ông đã là một trong những phật tử đầu tiên đã tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Đảng quang vinh.
|
Nhà Phật học Sư Thiện Chiếu. (Ảnh tư liệu) |
Ông sinh năm 1898 tại xã Vĩnh Hựu, Gò Công Tây - Tiền Giang trong một gia đình có truyền thống đạo Phật từ lâu đời. Thuở nhỏ, ông được gia đình cho xuất gia theo ông nội là trụ trì chùa Linh Tuyền, tức Hòa thượng Huệ Tịnh. Ở đây ông được giáo dục căn bản cả Hán học và Tây học. Cũng từ đó, tại ngôi chùa này, ông được tiếp xúc với nhiều trí thức yêu nước, đặc biệt trong đó có cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Trong những lần gặp gỡ, cụ Nguyễn Sinh Sắc có tặng cho ông quyển “Tự điển Pháp-Việt” với lời dặn: "Muốn đánh đuổi được giặc thì phải hiểu giặc, tuổi còn trẻ cố học cho giỏi Pháp văn".
Năm 1923, ông lên Sài Gòn học và sau đó làm trụ trì chùa Linh Sơn. Tại đây, ông vừa mở lớp dạy học thuyết giảng giáo lí đạo Phật, vừa cổ súy phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc trong giới Tăng ni, Phật tử. Ông viết quyển “Phật hóa tân thanh niên” nhằm kêu gọi giới trẻ xuất gia và Phật tử cần phải nắm vững Phật học (nội điển) và xã hội học (ngoại điển) để làm tròn nghĩa vụ của mình đối với đức Phật và cùng phận sự của đất nước.
Trước những hoạt động yêu nước của ông, chính quyền thực dân Pháp ở Sài Gòn đã ra lệnh trục xuất ông khỏi chùa Linh Sơn. Kể từ đó, ông bị nhà cầm quyền Pháp liên tiếp trục xuất ra khỏi các chùa Chúc Thọ, Hanh Thông Tây, Hưng Long (tại Sài Gòn lúc đó). Tuy vậy, ông vẫn không hề nao núng tinh thần, tiếp tục dạy học, thuyết pháp, viết sách và tranh luận với giới cầm quyền tay sai Pháp về mối liên quan giữa đạo với đời trên báo Tân Phong và một số tờ báo khác xuất bản tại Sài Gòn vào thời kỳ tinh thần đấu tranh của các nhà sư chống thực dân Pháp đang lên cao.
Năm 1926, chí sĩ Phan Chu Trinh từ trần, để tỏ lòng thương tiếc nhà chí sĩ tài danh, ông và một số nhà sư cấp tiến đã tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh trong giới tăng ni, Phật tử tại Nam bộ với nghi lễ trang trọng. Cũng trong thời gian này, ông cùng với các Hòa thượng Khánh Hòa (Bến Tre), Từ Nhẫn (Long An), Chân Huệ (Mỹ Tho), Trí Thiền (Rạch Giá) đã thành lập Hội Nghiên cứu Phật học và Hội Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ. Ông cũng là người sáng lập và là một trong những cây bút chủ lực của tờ báo Tiến Hóa - một trong tờ báo tiến bộ của giới Phật giáo ở Nam bộ trước năm 1930.
Từ năm 1927, ông được hòa thượng Khánh Hòa (người khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ) cử ra Hà Nội liên lạc với chư tăng ở miền Bắc. Sau đó ông trở vào Nam và tiếp tục lãnh đạo phong trào chấn hưng Phật Giáo ở Nam Kỳ cùng nhằm hướng đánh đuổi thực dân, để đạo & đời tái hợp với ý chí chống xâm lăng Tổ quốc, non sông.
Tại Nam Kỳ, năm 1928, khi Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng (Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội) phát triển mở ra toàn vùng Nam Kỳ, ông đã tham gia và được kết nạp Hội. Năm 1930, ông trở thành người phật tử đầu tiên tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ khi trở thành một đảng viên Cộng Sản, ông đã đi các tỉnh Nam Kỳ xây dựng cơ sở yêu nước của Đảng trong các nhà chùa ở Sài Gòn và miền Nam.
Để bảo vệ tính mạng cho ông, năm 1934, tổ chức của Đảng ở Sài Gòn chuyển ông sang hoạt động bí mật và là một cán bộ trung kiên Xứ ủy Nam Kỳ. Năm 1936, ông được phân công về tỉnh Rạch Giá hoạt động gây dựng phong trào yêu nước trong Phật giáo. Tại đây, ông cùng với Hòa thượng Trí Thiền - trụ trì chùa Tam Bảo, thành lập Hội Phật học kiêm tế và cho tái bản báo Tiến Hóa nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin.
Vào năm 1940, khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, ông đã cùng với nhiều nhà sư yêu nước khác vận động đồng bào Phật tử Sài Gòn nổi dậy, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Sau đó, với tinh thần "Từ bi có thể sát sanh để độ chúng sanh", ông tổ chức xưởng sản xuất vũ khí ngay tại chùa Tam Bảo (nay nằm trên địa bàn quận 10). Mật thám Pháp ở Rạch Giá phát hiện được, bắt một số nhà sư, riêng ông trốn thoát về Sài Gòn và tiếp tục hoạt động. Song không lâu sau, đầu năm 1943, ông bị địch bắt và bị kết án, đày ra Côn Đảo.
Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra thành công, ông được chính quyền cách mạng đón về và cử làm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chánh - Kháng chiến tỉnh Gò Công. Năm 1947, ông vào chiến khu 7, làm công tác biên tập báo Tiền Đạo. Sau đó, ông được điều về hoạt động ở chiến khu 8 rồi chiến khu 9, công tác tại Ban Tuyên huấn của Xứ ủy Nam bộ.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được Trung ương bố trí làm việc ở Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa Trung ương. Năm 1956, ông được Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa cử sang Trung Quốc làm chuyên gia khảo cứu các vấn đề lịch sử, văn hóa, công tác tại Nhà xuất bản Ngoại văn Bắc Kinh với chức vụ Trưởng ban dịch thuật Văn hóa Trung - Việt. Năm 1961, ông trở về nước làm chuyên viên nghiên cứu Viện Triết học, trực thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Trong những năm cuối đời, ông là một nhà triết học, sử học am hiểu nhiều mặt về mặt lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta, biên soạn nhiều công trình có ý nghĩa. Cuối năm 1965, do tuổi cao sức yếu, ông được Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam cho nghỉ hưu tại Thủ đô Hà Nội.
Năm 1974, do tuổi cao, ông tạ thế tại Hà Nội, hưởng thọ 76 tuổi. Thể theo nguyện vọng của giới tăng ni, phật tử Nam bộ và được sự chấp thuận của Nhà nước, năm 1993 Giáo hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh đã tiến hành việc chuyển hài cốt của ông từ Hà Nội về tôn trí tại chùa Pháp Hoa - Chùa tọa lạc tại số 229/24B đường Thích Quảng Đức, TP. Hồ Chí Minh hiện nay.
Những năm sống, làm việc tại Hà Nội, là một nhà nghiên cứu về văn học Phật Giáo, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, như: Chân lý của Tiểu thừa và Đại thừa Phật giáo, Tại sao tôi đã cám ơn đạo Phật, Phật học vấn đáp, Tranh biện... dịch Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Cú, Phật giáo vô thần luận của Thiền sư Thái Hư...
Sư Thiện Chiếu còn là dịch giả một số tác phẩm văn học Nga: Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (của M.Sholokhov), Tiền tuyến (kịch của A.E.Korneichuk), Tính cách Nga (truyện ngắn của A.Tolstoi), Ông già (truyện của V.Grossman)...
Nói về ông, nhiều nhà nghiên cứu Phật học đã đánh giá cao về trí tuệ và lòng yêu nước. Giáo sư, nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi viết: "Đó là một con người đã thống nhất trong bản thân mình tinh hoa của Phật giáo và tinh hoa của chủ nghĩa cộng sản"./.
Phạm Bá Nhiễu