1- Người gắn liền với thời kỳ đấu tranh đầy gian khó của cách mạng Việt Nam
Tiếp thu truyền thống yêu nước và bất khuất, đồng chí Lê Duẩn đã sớm giác ngộ cách mạng, đến với con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và của Đảng ta, sớm được giao trọng trách trong những hoàn cảnh đầy khó khăn của phong trào. Ở tuổi 30, đồng chí đã trở thành một nhà tổ chức mưu lược và khôn khéo. Từ 1936 đến 1939 là Bí thư Xứ ủy Trung kỳ, đồng chí luôn đi sát phong trào thời kỳ Mặt trận Dân chủ để có những hình thức duy trì, xây dựng cơ sở Đảng phù hợp. Cuối năm 1939, là ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, đồng chí đã cùng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chuẩn bị tổ chức Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương, đánh dấu bước chuyển hướng sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt và kịp thời của Đảng ta trước cách mạng Tháng Tám.
Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí đã cùng các đồng chí Phạm Hùng, Lê Đức Thọ và Xứ ủy Nam Bộ, sau đó là Trung ương Cục Miền Nam giải quyết một loạt vấn đề cơ bản và cấp bách trong hoàn cảnh lúc đó. Là người lãnh đạo ở những địa bàn khó khăn, gian khổ, đồng chí gắn bó mật thiết với đồng bào và phát hiện, bồi dưỡng, dìu dắt những cán bộ trẻ theo con đường cách mạng của Đảng, để lại dấu ấn đẹp đẽ cho đến tận sau này.
Đồng bào, đồng chí Nam Bộ còn giữ mãi những ấn tượng sâu đậm về Anh Ba khi nằm vùng hoạt động ở Cà Mau và một số tỉnh Tây Nam Bộ, đó là “có một người giống như kiểu Bác Hồ”, khi về trong lòng địch ở Sài Gòn mà bọn ngụy không hề hay biết. Các đồng chí lãnh đạo trong Khu ủy, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ ai cũng gần gũi, quý trọng đồng chí, kể cả các trí thức Nam Bộ tầm cỡ như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Hưởng, Ngô Tấn Nhơn, … đều có ấn tượng sâu sắc về đồng chí. Các đồng chí Nam Bộ gọi “Anh Ba” là ngọn đèn “Hai trăm nến” để tôn vinh trí tuệ sáng suốt và sự chỉ đạo sâu sắc, mưu lược kỳ diệu của đồng chí Lê Duẩn.
2- Người lãnh đạo tài ba trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Theo Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta tạm chia làm hai miền với ranh giới là vĩ tuyến 17. Thi hành Hiệp định, cán bộ miền Nam bao gồm cả chính trị và quân sự lần lượt ra Bắc tập kết. Đồng chí Lê Duẩn được Bác Hồ và Bộ Chính trị phân công ở lại Miền Nam, bí mật hoạt động, gây dựng phong trào, chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài giữa nhân dân ta với các lực lượng chống lại cách mạng Việt Nam, đứng đầu và trực tiếp là đế quốc Mỹ.
Đồng chí Võ Văn Kiệt cho đây là “một sự đầu tư đặc biệt lớn” của Bác Hồ và Trung ương Đảng cho cách mạng Miền Nam và cả nước trong tình hình lúc đó. Đó là thời kỳ hiểm nghèo, đặc biệt khó khăn, nguy hiểm, khi âm mưu của Mỹ và tay sai muốn chia cắt lâu dài đất nước ta, khi Mỹ đứng đằng sau, ủng hộ tập đoàn Ngô Đình Diệm đang tàn sát đẫm máu đồng bào và chiến sĩ ta ở Miền Nam. Đó là sự tin tưởng đặc biệt của Bác Hồ và Trung ương Đảng đối với đồng chí Lê Duẩn, tuy quyết định này “cũng có phần mạo hiểm” (1). Đêm chia tay tập kết cuối cùng, đồng chí Lê Duẩn dặn đồng chí Lê Đức Thọ báo cáo với Bác Hồ xin được gặp Bác sau 20 năm! Vừa xúc động, vừa thể hiện ý chí kiên định với nhiệm vụ lâu dài.
Với kinh nghiệm nhiều năm “sống chết” cùng đồng bào Nam Bộ, với quan hệ mật thiết gắn bó và tài thao lược tuyệt vời, đồng chí Lê Duẩn đã hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy của Bác Hồ và Bộ Chính trị. Nhờ sâu sát thực tế và óc nhạy cảm, hiểu sâu sắc tình hình, bản chất yêu nước, dám hy sinh chiến đấu cứu nước của nhân dân Nam Bộ, đồng chí đã đánh giá đúng tình thế và xu hướng vận động của tình hình. Đó là cơ sở để báo cáo Bác Hồ và Trung ương Đảng, là cơ sở của bản dự thảo “Đường lối cách mạng Việt Nam ở Miền Nam”. Về sau tài liệu này quen gọi là bản “Đề cương cách mạng Miền Nam”, tư tưởng chiến lược của nó được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng (Khóa II). Nghị quyết 15 đã khai thông dòng thác cách mạng Miền Nam, xua tan ảo tưởng thống nhất đất nước bằng “thi đua hòa bình”. Theo tinh thần của Nghị quyết, cả nước đã xác định rõ: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn (trước đó chỉ nói miền Bắc là chỗ dựa, chi viện cho cách mạng miền Nam).
Năm 1956, đồng chí Lê Duẩn quyết định bí mật chuyển từ Bến Tre lên hẳn Sài Gòn- sào huyệt địch để trực tiếp nắm tình hình. Cả bộ máy CIA và mật vụ dày đặc của Ngụy quyền Sài Gòn không thể ngờ bản Đề cương cách mạng miền Nam được soạn thảo tại trung tâm đầu não của chúng dưới ngọn bút của đồng chí Lê Duẩn.
Năm 1957, theo lệnh của Bác Hồ, đồng chí ra Hà Nội, nhận trọng trách Quyền Tổng Bí thư và chuẩn bị Đại hội III của Đảng. Đại hội đã bầu đồng chí là Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sau khi Bác Hồ qua đời, đồng chí là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở giai đoạn rất quyết liệt. Đặc biệt quan tâm đến cuộc chiến đấu hàng ngày của quân và dân miền Nam trên tiền tuyến lớn, nên ngoài việc chỉ đạo thông qua các chủ trương, nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, đồng chí Lê Duẩn còn thường xuyên gửi điện, thư chỉ đạo Trung ương Cục và các Khu ủy, các đồng chí có trọng trách ở các địa bàn, vùng chiến lược, chỉ đạo rất sâu sát. Do đó, các đồng chí miền Nam đều thấy đồng chí Lê Duẩn luôn luôn gần gũi và dồn hết tâm lực vào lãnh đạo Đảng, chỉ đạo Quân ủy Trung ương với một quyết tâm sắt đá, củng cố rất nhiều cho niềm tin chiến thắng của cách mạng miền Nam và sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của cả nước.
Thư vào Nam là một tác phẩm đặc sắc của đồng chí Lê Duẩn, gồm những thư, điện gửi các đồng chí phụ trách ở miền Nam, thể hiện trí tuệ thông minh, tài thao lược và những tình cảm cách mạng thiêng liêng của đồng chí Lê Duẩn. Tác phẩm có ý nghĩa lịch sử và giá trị chỉ đạo nhanh nhạy của đồng chí trong thời kỳ chống Mỹ.
Tư tưởng hậu phương lớn tất cả cho tiền tuyến lớn, ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược (miền núi, đồng bằng, đô thị), đấu tranh chính trị đi đôi với đấu tranh, kết hợp tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tấn công là những tư tưởng chỉ đạo cực kỳ sáng suốt của Đảng và đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, Bí thư Quân ủy Trung ương. Sự lãnh đạo của Đảng ta, sự chiến đấu anh hùng bất khuất của quân đội và nhân dân ta trên cả hai miền đã đi đến thắng lợi hoàn toàn với đại thắng mùa xuân 1975. Ngay tại sân bay Tân Sơn Nhất, vừa bước xuống chân cầu thang, các đồng chí lãnh đạo đã siết chặt vòng tay, ôm nhau vì thắng lợi hoàn toàn, và khi ấy, đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Đây là thắng lợi của toàn dân tộc”. Đây là luận điểm cực kỳ sâu sắc và nhạy bén chính trị của Đảng. Đồng chí Lê Đức Thọ đã có lần nói về đồng chí Lê Duẩn: Lời Anh là cả lời non nước!
Sự nghiệp thắng Mỹ của nhân dân ta làm sáng ngời thêm truyền thống dân tộc, quân và dân anh hùng, sáng ngời hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tư tưởng quân sự của Người, tôn vinh các tướng lĩnh Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Hoàng Minh Thảo, Trần Văn Trà, … tôn vinh Tổng Bí thư Lê Duẩn “đã có công lao to lớn với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc” (2). Đồng chí Đỗ Mười đã viết: “Suốt 20 năm chống Mỹ, có thể nói trong mỗi quyết sách chiến lược đối nội cũng như đối ngoại, trong mỗi thắng lợi ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, trên chiến trường cũng như trên đàm phán, trong giai đoạn mở đầu cũng như trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, ở đâu cũng có dấu ấn tư duy độc lập, trí tuệ sáng tạo và nghị lực phi thường của Anh Ba”(3).
3. Đóng góp cho công cuộc cách mạng XHCN, xây dựng CNXH ở Việt Nam
Di sản của đồng chí Lê Duẩn về cách mạng XHCN ở Việt Nam cũng đồ sộ và đầy ấn tượng. Đó là những tư duy lý luận như một hệ thống lôgíc về các vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Nếu ở giai đoạn trước chủ yếu là các quy luật của đấu tranh nhân dân, xây dựng lực lượng cách mạng, sáng tạo và nắm vững thời cơ tiêu diệt địch, giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, thì sang giai đoạn mới, đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn chưa có tiền lệ. Dấu ấn sâu sắc của đồng chí Lê Duẩn ở giai đoạn này trước hết là dấu ấn của một nhà lý luận uyên thâm, tư duy biện chứng với phương pháp toàn diện, cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH khoa học. Đó còn là dấu ấn của một ước mong cháy bỏng, mong đất nước cường thịnh, nhân dân mau chóng được hưởng hạnh phúc trong đời sống vật chất dồi dào, thể hiện qua tư duy làm ăn lớn, sản xuất lớn, hiện đại, với công nghiệp phát triển mạnh làm nền tảng.
Tư duy lý luận của đồng chí được phản ánh trong Nghị quyết Đại hội III, đặc biệt ở Đại hội IV của Đảng: xác định đường lối chung của cách mạng XHCN, xây dựng CNXH ở nước ta và đường lối phát triển kinh tế. Đó là quá trình tìm tòi, sáng tạo xuất phát từ đặc điểm nước ta, thể hiện trong tư tưởng và lý luận xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đồng chí đặc biệt say sưa chuyên đề này và coi đó như một sự vận động sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng ta trong xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện đã có những chủ quan, áp đặt, duy ý chí. Vì vậy, Đại hội VI của Đảng đã kiểm điểm sâu sắc và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu của cách mạng.
Đặc biệt coi trọng các vấn đề từ cơ sở, địa phương, do vậy, đồng chí luôn bám sát thực tế, thâm nhập và phát hiện vấn đề. Đồng chí nói: “Không có và không thể có con đường nào khác. Cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải đổi mới trong suy nghĩ và việc làm. Đó là sự đổi mới theo đường lối của Đảng để đường lối được thực hiện tốt hơn, mang lại lợi ích lớn hơn cho nhân dân và đất nước”(4). Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh và một số địa phương có những kỷ niệm sâu sắc về cách làm việc sâu sát trên lĩnh vực kinh tế của đồng chí theo hướng động viên mạnh mẽ các tiềm năng kinh tế.Trong những năm tháng đó, đồng chí Lê Duẩn để lại những kinh nghiệm quý làm việc với cơ sở. Lời nói của đồng chí: “Làm việc với cơ sở, nghị quyết phải bỏ trong túi chứ đừng mang ra đọc. Phải hỏi kỹ tình hình và cách giải quyết các vấn đề cụ thể của cơ sở”(5) và làm mẫu cho các đồng chí cùng đi, từ giai đoạn cách mạng trước đến thời kỳ làm ăn kinh tế sau này đã được nhiều đồng chí học tập và nhắc mãi.
4. Với bạn bè quốc tế và những người anh em, đồng chí
Đi theo con đường của Lênin và Bác Hồ vĩ đại, Tổng Bí thư Lê Duẩn luôn luôn vun đắp cho tình thần đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản, coi đây là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt nam. Đồng chí đặc biệt coi trọng và góp sức nâng cao tinh thần đoàn kết hữu nghị, cùng chiến đấu vì mục tiêu chung của các nước XHCN, trước hết là Liên bang Xô Viết, khối đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia, Việt Nam – Cu Ba và các lực lượng cách mạng khác. Thế giới tôn vinh ca ngợi đồng chí bằng những lời hết sức cao đẹp, người “đại diện lỗi lạc của đội ngũ những người cách mạng Việt Nam”, “một nhà lãnh đạo đầy tình người và sôi nổi”, “một trong những người lãnh đạo xuất sắc nhất”, “nhà quốc tế chủ nghĩa kiên cường, người chiến sĩ gang thép đấu tranh vì sự thống nhất của các nước XHCN” (6).
Tổng Bí thư Lê Duẩn là nhà chính trị sâu sắc, nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, có uy tín lớn ở Việt Nam và trên thế giới. Nhà thơ Tố Hữu gọi đó là “Cánh đại bàng Việt Nam”. Trọn đời làm cách mạng, trọn đời làm công tác Đảng, đồng chí có vai trò ở những bước ngoặt lịch sử và thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nét đặc sắc của tấm gương cách mạng triệt để ấy là sự gắn kết hài hoà lý trí và tình cảm, là lòng yêu nước, quý trọng đồng bào, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với đồng bào, đồng chí và đồng đội. Cùng với trí tuệ mẫn cảm, quyết thắng, là tình cảm bao la, trìu mến, thân thương.
Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí thường nhắc nhở về tinh thần đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, trong công việc phải biết kết hợp tâm huyết và trí tuệ, không có tâm huyết thì không thể sáng tạo, song phải biết phân biệt rạch ròi, không lẫn lộn: “Trong tổ chức thực hiện, phải dồn tất cả tâm huyết thì mới tìm ra được những giải pháp mới, sáng tạo. Tuy nhiên, khi phải thực hiện chủ trương và giải quyết những vấn đề liên quan tới chủ trương lớn thì không để tình cảm xen vào” (7). Đó là thuộc tính của người cộng sản, người cán bộ đảng viên gương mẫu, gắn bó máu thịt cùng nhân dân với tâm hồn lộng gió, trái tim dào dạt với cuộc đời. Đến thăm ngành giáo dục, đồng chí căn dặn phải yêu nghề, thương yêu học sinh. Đến thăm Hội phụ nữ, đồng chí thường nhắc nhở phải đoàn kết thương yêu nhau, để lại những tình cảm đẹp trong gia đình giữa vợ chồng và con cái... Đó là nét đẹp nhân văn, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Nhớ về Tổng Bí thư Lê Duẩn, không chỉ là nhớ về một nhà lãnh đạo kiệt suất của Đảng và cách mạng, mà còn là nhớ về một tình cảm lớn hòa quyện cùng trí tuệ sáng suốt, đưa tới những thắng lợi vinh quang, như những dòng thơ Tố Hữu “Nhớ về Anh”:
Cây đời chung đang lớn lên nhanh
Đã sai đâu trái chín trên cành!
Cái đẹp lớn ở dáng người làm chủ
Giống mới lọc từ bao dòng giống cũ
Sáng tạo, vun trồng là vinh dự, niềm vui
Sống là cho, là chia ngọt sẻ bùi
Yêu biết mấy, cái tên đồng chí!
TS. Đỗ Khánh Tặng
-------------------------
(1) Võ Văn Kiệt: Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, 2007, tr.58.
(2) Tài liệu đã dẫn: Nghị quyết của Hội đồng Nhà nước tặng đồng chí Lê Duẩn Huân chương Sao Vàng, tr.5.
(3) Đỗ Mười: Nhớ về anh Ba Duẩn, Tài liệu đã dẫn, tr.49.
(4) Lê Duẩn: Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 19/5/1986, Tài liệu đã dẫn.
(5) Tài liệu đã dẫn, tr.55.
(6) Tài liệu đã dẫn, tr.145 – 148.
(7) Võ Văn Kiệt: Tài liệu đã dẫn, tr.63.