1. CHỚP THỜI CƠ GIÀNH ĐỘC LẬP MÙA THU NĂM 1945
Năm
1945, khi sự tác động thuận lợi của tình hình quốc tế và sự phát triển
của phong trào cách mạng trong nước dâng cao, Hồ Chí Minh đã thực hiện
những quyết định táo bạo, "hành động một cách kiên quyết và nhanh
chóng”, chuẩn bị chu đáo cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong toàn quốc.
Theo Người: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”(1) và
phải thành lập Chính phủ “do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm
tất cả đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra.
Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công
việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”(2).
Vì thế, Người gửi thư cho đồng bào, đồng chí toàn quốc, thông báo chủ
trương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc để bầu ra một cơ cấu - đại
biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể dân
tộc của Đảng.
Tháng
2/1945, Hồ Chí Minh đi Côn Minh (Trung Quốc) để tranh thủ sự giúp đỡ
của quân Đồng minh với cuộc chiến đấu giành độc lập của nhân dân ta.
Trong thời gian này, phát xít
Nhật tiến hành đảo chính, lật đổ thực dân Pháp (ngày 9/3/1945), độc
chiếm Đông Dương, để rảnh tay đối phó với quân Đồng minh. Tình thế mới
và những nhiệm vụ cần kíp để chuẩn bị lãnh đạo quần chúng đấu tranh
giành chính quyền đã được nêu rõ trong bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945).
Khi
vua Nhật tuyên bố đầu hàng không điều kiện (ngày 14/8/1945), quân Nhật ở
Đông Dương mất tinh thần và khi đó Chính phủ Trần Trọng Kim đang hoang
mang, tê liệt; khi thời cơ và điều kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong toàn quốc đã chín muồi, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh
quyết định tổ chức: 1) Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân
Trào (ngày 13 đến ngày 15/8/1945) ra quyết định phát động Tổng khởi
nghĩa, thi hành Mười chính sách Việt Minh. Uỷ ban khởi nghĩa toàn
quốc được thành lập để thống nhất chỉ huy cuộc chiến đấu, ra Quân lệnh
số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông
Dương giải giáp quân đội Nhật; 2) Quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào (chiều
ngày 16/8/1945), với khoảng 60 đại biểu dự Đại hội, đại diện cho cả ba
miền Bắc, Trung, Nam, đại diện kiều bào ta ở Lào và Thái Lan và các đảng
phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc, các tôn giáo. Đại hội nhất trí
việc phát động Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong toàn quốc, hiệu
triệu nhân dân toàn quốc và các đoàn thể cách mạng kịp thời đứng lên
giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên
nền tảng hoàn toàn độc lập; 3) Đồng thời, Hồ Chí Minh
gửi thư kêu gọi tổng khởi nghĩa và khẳng định: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta”(3).
Với
tầm nhìn chiến lược và sự nhạy bén trước sự chuyển biến mau lẹ của tình
hình thế giới và trong nước, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã tận
dụng triệt để những thuận lợi cơ bản khi đó, nhất là trong khi quân Đồng
Minh chưa kịp vào Đông Dương, quân Pháp đầy tham vọng quay trở lại Việt
Nam nhưng chưa thể thực hiện được để thông qua những quyết sách lịch
sử, chớp đúng thời cơ và lãnh đạo nhân dân vùng lên giành chính quyền.
Theo lời hiệu triệu của Người, nhân dân cả nước đã triệu người như một
vùng lên giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội (ngày 19/8), ở Huế (ngày
23/8) và ở Sài Gòn (ngày 25/8). Chỉ trong vòng 15 ngày, cuộc Tổng khởi
nghĩa đã thành công trong toàn quốc.
Cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945 đã thành công. Ngày
25/8/1945, Hồ Chí Minh cùng Ủy ban dân tộc giải phóng về đến Hà Nội và
theo đề nghị của Người: Uỷ ban tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời,
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trước quốc dân và tuyên bố với
thế giới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn độc lập
khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”; đồng
thời, nhấn mạnh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự
do và độc lập ấy”(4).
2. CHỦ ĐỘNG HỢP TÁC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Ngay từ những ngày đầu lập quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương hợp
tác và hội nhập là để tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật của
các nước phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Người đã khẳng
định: “Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta
khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác… Chúng ta sẽ mời
những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc
cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia"(5). Vì thế,
trong thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Giêm Biếcnơ, mở đầu cho mối quan
hệ hợp tác giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ, trước hết trong lĩnh
vực văn hoá, Người không chỉ đề nghị “được gửi một phái đoàn khoảng 50
thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan
hệ văn hoá thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc
tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực
chuyên môn khác” mà còn nhấn mạnh rằng "những ý tưởng cao thượng về công
lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã
có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam"(6).
Khuyến
khích các nhà tư bản nước ngoài, chấp nhận để họ đầu tư, kinh doanh tại
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm phát huy những thành
tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ của nền văn minh tư bản, thành quả lao
động, sáng tạo của loài người để phục vụ con người và cũng là nhằm góp
phần bồi dưỡng lực lượng, phát triển và tăng cường nội lực của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Không phải ngẫu nhiên trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc
viết bằng tiếng Pháp gửi cho các nước Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, Trung
Quốc... năm 1946, Hồ Chí Minh lại tuyên bố chủ trương mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam với các nước dân chủ và dành sự tiếp nhận
thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong
tất cả các ngành kỹ nghệ... Bởi, Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân
bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp
nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp
quốc... là để xây dựng lại Việt Nam sau chiến tranh và góp phần "điều
hòa với kinh tế thế giới và giữ gìn hoà bình". Nước Pháp và các nước
khác cần đến Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế và ngược lại, Việt Nam
cũng rất cần tiếp thu, học hỏi những thành tựu về kỹ thuật, công nghệ
của nền văn minh tư bản, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song hội nhập,
mở cửa kinh tế phải dựa trên nguyên tắc: "Hợp tác, Đồng ý! Nô lệ, Không!
Và điều kiện trước hết cho sự hợp tác là Độc lập"(7) …
Trong
những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, khi nói về chính sách đối
ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: "Làm bạn với tất cả mọi nước
dân chủ và không gây thù oán với một ai"(8), để vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, đồng thời đưa Việt Nam hội nhập cùng thế giới. Sau
khi miền Bắc được giải phóng, thực hiện khôi phục, cải tạo và bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam
kiên trì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc Mỹ xâm lược,
Người tiếp tục khẳng định quan điểm hợp tác để phát huy những tiềm năng
của Việt Nam, thu hút ngoại lực để không chỉ phát huy nội lực mà còn
tăng thêm lực lượng đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất
nước nhà. Người nhấn mạnh: “Các nước bạn giúp ta để hàn gắn mau chóng
những vết thương chiến tranh; để tăng gia sản xuất về nông nghiệp, công
nghiệp và để phát triển thương nghiệp; để khôi phục và phát triển kinh
tế và văn hóa; để ta dần dần nâng cao đời sống của nhân dân ta”(9) để ta khôi phục lại kinh tế, văn hóa và xây dựng nước nhà…
3. KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ
Sau
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, cả nước Việt Nam thống nhất, cùng đi lên
chủ nghĩa xã hội. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng hội nhập quốc tế là
một xu thế tất yếu và đó là con đường phát triển nhanh, bền vững, để xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Thực
hiện đường lối đổi mới từ Đại hội VI của Đảng năm 1986, Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục quan điểm hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm tạo dựng,
củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, góp phần vào
công cuộc phát triển đất nước và mở rộng hợp tác kinh tế; nâng cao vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế và chủ động tích cực góp phần vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Thông
qua hợp tác và hội nhập, không chỉ gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia,
tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại mà còn thiết thực nâng cao đời
sống người dân, củng cố niềm tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế vào
sự nghiệp đổi mới của Việt Nam, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực và trên trường
quốc tế. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Cương
lĩnh 1991) của Đảng khẳng định: “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với
tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên
cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình"(10). Thực tế
cũng cho thấy, hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ mang lại nhiều cơ hội, đặc
biệt là việc tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là
tạo cơ hội lớn để tiếp cận với tri thức tiên tiến của nhân loại, từng
bước làm cho Việt Nam trở thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới.
Tuy
nhiên, trong tiến trình hợp tác và hội nhập, Việt Nam cũng phải đối
diện với những thách thức mới, những tác động tiêu cực gia tăng. Trên cơ
sở những kết quả đã đạt được sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991
và tiếp tục triển khai hợp tác, hội nhập quốc tế chủ động, mạnh mẽ, toàn
diện, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) nêu
rõ một trong 5 bài học kinh nghiệm lớn là: “Kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong
bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao
tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”(11).
Đồng thời, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cũng khẳng định: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây
dựng và phát triển đất nước”(12) và “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”(13)...
Chủ
trương tiếp tục “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu
vực và trên thế giới”(14) đã
được Đại hội XII của Đảng khẳng định. Việt Nam tiếp tục kiên trì đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, thực hiện chính sách đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm "Việt Nam muốn là
bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển". Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã
cụ thể hóa Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội
nhập quốc tế cảu Việt Nam khi phê duyệt Chiến lược tổng thể về hội nhập
quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Theo
Bộ Ngoại giao, đến năm 2020, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với
189/193 nước thành viên Liên hợp quốc; có 16 khuôn khổ quan hệ đối tác
chiến lược và 14 khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện… Cộng đồng quốc tế
ghi nhận và đánh giá cao vai trò, trách nhiệm của Việt Nam trong hội
nhập, thực hiện các cam kết quốc tế. Vị thế trên trường quốc tế ngày
càng cao và Việt Nam đang tạo ra những thế mạnh mới để ngày càng phát
triển. Ông Richard Cronin, Cố vấn phụ trách các vấn đề châu Á - Thái
Bình Dương thuộc Viện Stimson nhận định: "Việt Nam đã để lại dấu ấn với
bạn bè quốc tế bởi khát vọng hòa bình mãnh liệt cho dân tộc mình. Giờ
đây, thế giới lại được chứng kiến Việt Nam trở thành mảnh đất ươm mầm
cho hòa bình. Điều này đã tạo dựng lòng tin vững chắc của bạn bè trên
khắp 5 châu vào chính sách đối ngoại của Việt Nam, nâng tầm vị thế của
nước ta trên trường quốc tế".
Trong
nước, bức tranh kinh tế - xã hội của Việt Nam đến hết năm 2019 đầu năm
2020 có nhiều mảng sáng hơn mảng tối, là minh chứng sống động cho thành
công của kinh tế Việt Nam trước hàng loạt biến động lớn, khó lường của
kinh tế thế giới, khu vực. Theo Tổng cục Thống kê, điểm nhấn trong bức
tranh kinh tế - xã hội khởi sắc của năm 2019 là tăng trưởng kinh tế đạt
7,02%, đây là năm thứ hai liên tiếp tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt
trên 7% kể từ năm 2011. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát
thấp nhất trong 3 năm qua. Kinh tế đối ngoại đạt nhiều kết quả quan
trọng, thu hút FDI đạt 38,02 tỷ USD, xuất siêu vượt 9,9 tỷ USD; kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa vượt mốc 500 tỷ USD. Lạm phát được kiểm
soát ở mức thấp, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2019 chỉ tăng 2,79%,
thấp nhất trong 3 năm qua. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích
cực; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm dần, thu nhập của người lao
động tăng lên; an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Việt Nam đã đón
18 triệu lượt khách du lịch quốc tế…
Việt
Nam đã chính thức ký với Liên minh châu Âu Hiệp định Thương mại tự do
(EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA), kết thúc đàm phán Hiệp định
Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), tạo ra những động lực mới cho
phát triển, đổi mới thể chế kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), năng lực
cạnh tranh toàn cầu của kinh tế Việt Nam đã tăng 10 bậc so với năm 2018
lên vị trí 67/141 quốc gia và vùng lãnh thổ và xếp thứ 8 trong số các
nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư (tăng 15 bậc so với năm 2018)…
Những thành tựu này góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nền
kinh tế tăng trưởng cao thuộc loại hàng đầu của khu vực và IMF đánh giá
Việt Nam nằm trong Top 20 nền kinh tế đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng
toàn cầu năm 2019. Đây cũng là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam đạt và
vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Quốc hội đề ra,
trong đó 7 chỉ tiêu vượt kế hoạch.
Năm
2020, Việt Nam lần đầu tiên cùng đảm đương đồng thời 2 trọng trách là
Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Điều đó không chỉ thể hiện sự tin cậy và kỳ
vọng lớn của bạn bè quốc tế vào Việt Nam mà còn là cơ hội để đất nước
ta chủ động, tích cực đóng góp trách nhiệm vào hòa bình, an ninh và
thịnh vượng chung của khu vực và thế giới; khẳng định một Việt Nam yêu
chuộng hòa bình, đổi mới, đang hội nhập quốc tế sâu rộng; thúc đẩy quan
hệ song phương giữa Việt Nam và các nước, tạo ra những động lực mới cho
phát triển và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam.
Đặc biệt, những thành công bước đầu trong
quá trình chủ động phòng, chống dịch Covid-19 đã và đang được kiểm
soát tốt, vói 352/373 bệnh nhân được công bố khỏi bệnh, chiếm 94,4% tổng
số ca bệnh Covid-19 của nước ta và không có bệnh nhân tử vong vì
Covid-19 (tính đến 6g ngày 14-7-2020), Việt Nam được cộng đồng quốc tế
ghi nhận và đánh giá cao về tính chủ động, biện pháp nhanh và hiệu quả,
ứng phó tốt nhất với dịch Covid-19 trên thế giới...
Sau
75 năm kể từ khi Việt Nam tuyên bố độc lập (1945-2020) và 34 năm thực
hiện đường lối đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng (1986-2020), vị thế
của đất nước ta, nhân dân ta đã được khẳng định trong khu vực và thế
giới. Những con số phác thảo, song ấn tượng nêu trên đã cho thấy sự phát
triển vượt bậc của Việt Nam sau bao khó khăn, thách thức; thể hiện sự
chủ động và tầm vóc của Việt Nam trong tiến trình hợp tác, hội nhập quốc
tế, đúng như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định:
"Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như
ngày nay"./.
(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.3, tr.538, 537, 595.
(4), (5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3, 86, 92.
(7) Hồ Chí Minh: Trả lời phỏng vấn André Blanchet, phóng viên báo Le Monde, ngày 21/2/1946, Tài liệu lưu Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.256.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.56.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007, t.51, tr.144.
(11), (12), (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.66, 138-139,102.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016. tr.79.
TS. Văn Thị Thanh Mai