Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta trong 83 năm qua đều bắt nguồn từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm, đường lối đó cũng là sự kết hợp những nguyên tắc cách mạng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ở những thời điểm mang tính bước ngoặt của lịch sử, Đảng ta đã kịp thời đề ra những quan điểm, chủ trương, đường lối thích hợp để chỉ đạo xây dựng nền văn hóa, văn nghệ nước nhà. (Dấu ấn đầu tiên là bản Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943).
Có thể nói, Đề cương về văn hóa Việt Nam là một văn kiện lịch sử, một bản tuyên ngôn văn hóa đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu sự chuyển hướng rõ rệt về phương diện lãnh đạo văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, là vũ khí tư tưởng sắc bén của các chiến sỹ trên mặt trận văn hóa. Đề cương nêu những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lúc đó của Việt Nam, đó là những quan điểm cơ bản về cách mạng văn hóa, chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng chính trị, cách mạng kinh tế và cách mạng văn hóa; những nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam phù hợp với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa phục vụ cho cuộc cách mạng đó là nền văn hóa tân dân chủ về nội dung; dân tộc về hình thức. Ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn này là dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa. Theo đó, dân tộc hóa là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập; khoa học hóa là chống lại những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ; đại chúng hóa là chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng.
Điều rất quan trọng của Đề cương văn hóa là đã nêu ra phương hướng chung của cách mạng văn hóa Việt Nam, vị trí của cách mạng văn hóa trong cách mạng Việt Nam nói chung, đồng thời đề ra cho người trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam những việc cụ thể phải làm để góp sức cùng toàn dân giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do và xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Đề cương văn hóa đã thức tỉnh và thu hút đông đảo những người làm công tác văn hóa, văn nghệ đi theo cách mạng bằng nhiều con đường, dưới nhiều hình thức hoạt động do các đoàn thể văn hóa cách mạng tổ chức, với một mục đích rõ ràng, thống nhất, đó là giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của phát xít Nhật - Pháp, giành tự do và độc lập, mở đường cho văn hóa phát triển.
Đến Đại hội III của Đảng (9-1960), Đảng xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Ở miền Bắc, đi đôi với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, cần phải đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật với mục tiêu là làm cho nhân dân lao động có trình độ văn hóa ngày càng cao, nắm được những hiểu biết về khoa học, kỹ thuật và áp dụng những hiểu biết đó vào việc xây dựng một nền văn hóa, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, thiết thực phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc; những phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa; báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thanh, điện ảnh và các công tác văn hóa khác phải thực sự trở thành vũ khí ngày càng sắc bén của giai cấp công nhân trên hoạt động tư tưởng và chính trị, ra sức nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng trong công tác đó…
Như vậy, xuất phát từ nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng chính trị, Đảng đã có sự điều chỉnh quan điểm đối với văn hóa, cụ thể là: thay nội dung dân chủ bằng nội dung xã hội chủ nghĩa; thay hình thức dân tộc bằng tính chất dân tộc, nhấn mạnh tính chất của nền văn hóa giai đoạn này là tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, để phù hợp với tình hình mới, nhiệm vụ, yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam.
Đại hội IV của Đảng (12-1976), trong điều kiện đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công tác giáo dục, văn hóa, văn nghệ, xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính Đảng, tính dân tộc, tính nhân dân. Nền văn hóa mới ấy được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, vừa kết tinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh nhân loại. Nền văn hóa mới là sự kết hợp hài hòa những tinh hoa và phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Xây dựng nền văn hóa mới là quá trình bồi đắp tư tưởng của giai cấp công nhân, những tình cảm lành mạnh, những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; đồng thời đấu tranh quét sạch ảnh hưởng của văn hóa thực dân, phong kiến, tư sản và những nhân tố lạc hậu trong xã hội. Đại hội đã xác định tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hóa là một trong ba nhiệm vụ chiến lược của Đảng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học, kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa.
Có thể nhận thấy, cũng xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của cách mạng chính trị, Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa, đó là về nội dung: nội dung xã hội chủ nghĩa, về tính chất: tính Đảng, tính dân tộc, tính nhân dân. Trong đó, tính Đảng được coi trọng (nhắc đến đầu tiên) là thể hiện trách nhiệm, ý chí, quyết tâm của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của dân tộc trong điều kiện mới: cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VI (12-1986), đánh dấu bước chuyển hướng và đổi mới quan trọng về sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa để đồng bộ với những tư duy mới của Đảng trên các lĩnh vực khác, nhất là lĩnh vực kinh tế. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VI) của Đảng đã điều chỉnh một cách căn bản định hướng xây dựng và phát triển văn hoá, xác định xây dựng văn hoá thời kỳ bắt đầu sự nghiệp đổi mới là nền văn hoá Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đậm đà bản sắc dân tộc. Như vậy là vừa rõ về mục tiêu, đó là văn hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời nội dung, tính chất là đậm đà bản sắc dân tộc để phù hợp với tình hình mới, khi đất nước ta bước vào thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Từ Đại hội VII (6-1991) đến Đại hội VIII (7-1996), trong khoảng những năm từ 1986 đến 1998, thế giới có những biến động lớn về chính trị. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; Đảng và nhân dân ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy đã có những thành tựu bước đầu quan trọng, nhưng cũng gặp không ít thách thức, những vấn đề phát sinh; tất cả những biến động, biến đổi của nền kinh tế thị trường đã tác động trực tiếp đến đời sống xã hội, tư tưởng, tình cảm và đặc biệt là đời sống văn hóa, sinh hoạt tinh thần của nhân dân ta, đòi hỏi trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nói chung cũng như đối với văn hóa nói riêng cần có sự nghiên cứu, tổng kết, nhận định và điều chỉnh, bổ sung chủ trương, quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà cho phù hợp với tình hình trong nước, khu vực và trên thế giới.
Để đáp ứng yêu cầu mới về lãnh đạo văn hóa, ngày 16-7-1998, Hội nghị Trung ương 5 (khoá VIII) của Đảng đã ban hành Nghị quyết về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cho đến nay, gần 15 năm thực hiện Nghị quyết, nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học về văn hoá đã khẳng định rằng Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là chiến lược văn hoá lớn nhất từ khi Đảng ta ra đời, là sự kế tiếp Đề cương về văn hoá Việt Nam (năm 1943) và là kết quả từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hoá, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá của nhân loại. Vì vậy, nó vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Nghị quyết xác định 5 quan điểm cơ bản để chỉ đạo xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó là: văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng, sự kiên trì và thận trọng.
Nghị quyết cũng chỉ ra 10 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hoá.
Đại hội IX của Đảng (4-2001), những tư tưởng chủ yếu về phát triển văn hoá thể hiện:
Một là, trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về văn hoá, Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh vị trí của văn hoá trong lịch sử phát triển của dân tộc ta.
Hai là, về khái niệm văn hoá, Nghị quyết nhấn mạnh những quan điểm cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), khẳng định sức sống lâu bền của những quan điểm, tư tưởng đó trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ba là, về ý nghĩa “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội”, Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều sâu của sự phát triển của dân tộc, khẳng định vị trí của văn hoá trong đời sống xã hội, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hội nhập quốc tế, càng cần phải khẳng định vị trí văn hoá của dân tộc, cũng như khẳng định nền kinh tế độc lập, tự chủ. Khẳng định để giữ gìn, bảo vệ và tự tin, tự chủ bước vào hội nhập quốc tế. Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội đã được khẳng định trong Cương lĩnh năm 1991 và Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Đảng.
Bốn là, đặc trưng cơ bản của nền văn hoá là đại chúng, dân tộc, hiện đại và nhân văn. Như vậy, Nghị quyết Đại hội IX về văn hóa, Đảng ta có điểm mới, đó là: Khẳng định tính đại chúng của nền văn hóa để làm rõ nền văn hoá của chúng ta không phải là của một số ít người mà là của đông đảo nhân dân, những chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Hiện đại và dân tộc gắn liền với nhau để đáp ứng yêu cầu mới trong xây dựng con người về trí tuệ, bản lĩnh, tâm hồn, tình cảm, đạo đức. Tính nhân văn của một nền văn hoá mà Đảng ta khẳng định là một nền văn hoá vì con người, hướng vào con người, bồi dưỡng, bảo vệ con người, đồng thời nhân văn còn có ý nghĩa rằng văn hoá Việt Nam là một bộ phận của văn hoá nhân loại.
Trong kết luận của Hội nghị Trung ương 10, khoá IX (10-2004) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), Đảng ta tiếp tục khẳng định giữ vững và quán triệt thật sâu sắc, đầy đủ hơn nữa 5 quan điểm xây dựng và phát triển văn hoá của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII). Kết luận cũng chỉ rõ mục tiêu về văn hóa trong những năm tới cần đạt được là:
- Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá- nền tảng tinh thần của xã hội. Sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
- Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hoá, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hoá Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
- Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hoá các dân tộc anh em, làm phong phú nền văn hoá chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam.
Về nhiệm vụ, Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) yêu cầu trước mắt tập trung vào 3 nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở…
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo 5 đức tính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII): Yêu nước; có ý thức tập thể; có lối sống lành mạnh; lao động chăm chỉ sáng tạo; thường xuyên học tập.
Ba là, chú trọng xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tốt đẹp, phong phú.
Thời điểm năm 2004, sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã tiến hành được 8 năm. Quá trình đó, văn hoá đã có những đóng góp quan trọng, đồng thời là nhân tố di dưỡng đạo đức, nuôi dưỡng đời sống tinh thần xã hội. Đây chính là bước phát triển mới của Đảng, Nhà nước ta trong tư duy nhận thức về vai trò, vị trí của văn hoá. Theo đó, nhân tố con người được coi trọng, là nhân tố chủ đạo của sự phát triển. Đề cao nhân tố con người; đề cao văn hoá dân tộc là một thành tựu của tư duy đổi mới của Đảng.
Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khoá IX) còn ghi dấu mốc quan trọng nữa, đó là xác lập một kết cấu chặt chẽ và đồng bộ giữa nhiệm vụ kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, với không ngừng nâng cao văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội. Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bùng nổ khoa học - công nghệ thông tin, phương hướng xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc càng tỏ rõ sức sống, sự cần thiết có tính sống còn đối với xã hội.
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006), về định hướng phát triển văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội, Nghị quyết chỉ rõ phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhưng do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới, trong tình hình mới, trước thực tiễn chất lượng đời sống văn hoá của toàn xã hội, Đảng ta nhấn mạnh thêm một nội dung cần chú trọng trong khi thực hiện các quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đó là: gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa với phát triển kinh tế- xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, trước thực tế xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên phạm vị toàn cầu; trước thực trạng tăng trưởng kinh tế của đất nước chưa bảo đảm bền vững, tiến bộ xã hội, môi trường sống chưa được coi trọng, Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ một số nội dung cần được cấp ủy các cấp, nhất là ngành văn hóa, thể thao và du lịch coi trọng, quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đó là:
1- Tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gắn kết chặt chẽ hơn với phát triển kinh tế xã hội; làm cho văn hoá thấm sâu và mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
2- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, sinh viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá Việt Nam.
3- Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hoá. Đa dạng hoá các hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
4- Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
5- Tăng cường xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá.
6- Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, di sản văn hoá vật thể, phi vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch.
7- Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển. Nâng cao chất lượng tư tưởng văn hoá, hiện đại về mô hình, cơ cấu, cơ sở vật chất kỹ thuật. Xây dựng cơ chế quản lý khoa học, phù hợp.
8- Đảm bảo tự do, dân chủ cho những hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học, nghệ thuật. Đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, cơ cấu tổ chức của các hội văn học nghệ thuật từ trung ương đến địa phương.
9- Tăng cường quản lý nhà nước về văn hoá. Xây dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định. Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá. Chống sự xâm nhập văn hoá độc hại, lai căng, phản động.
10- Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân, các hội văn học nghệ thuật, khoa học, trí thức, báo chí, của các cá nhân. Xây dựng và phát triển chương trình giáo dục văn hoá, thẩm mỹ, nếp sống văn hoá hiện đại trong nhân dân.
Đại hội XI của Đảng (1-2011), về quan điểm, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 2011 đến 2020, Báo cáo Chính trị tại Đại hội xác định: phát triển văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi, sống có văn hoá, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giới, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Tiếp tục củng cố và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Phát triển mạnh sự nghiệp văn học, nghệ thuật, hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá.
Như vậy, đến Đại hội XI, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được khẳng định. Nhưng từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước những năm qua, đặc biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá trình toàn cầu hóa, của nền kinh tế thị trường, Đảng ta đã xác định bốn nội dung cần được cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và nhất là ngành văn hóa coi trọng, tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Trong đó, việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng có ý nghĩa rất quan trọng, chi phối và gắn bó hữu cơ với ba nội dung sau. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thực chất là chăm lo phát triển con người, xây dựng môi trường sống cho con người, góp phần tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được bảo đảm. Quá trình xây dựng môi trường văn hóa phải chú trọng xây dựng đời sống văn hoá, vì đó là bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá.
Đối với văn học, nghệ thuật hay bảo tồn phát huy các di sản văn hóa cũng phải có mục tiêu cụ thể, nhằm đạt tới kết quả cuối cùng là có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thực sự phát huy chức năng giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho công chúng, nâng cao ý thức dân tộc, trách nhiệm của mỗi người với những giá trị đó.
Các cơ quan thông tin, truyền thông đặc biệt là báo chí, xuất bản là những công cụ trực tiếp, đắc lực có trách nhiệm tuyên truyền cho quá trình chăm lo phát triển văn hóa của đất nước trên cơ sở vì mục đích, lợi ích của nhân dân và đất nước. Đương nhiên, đội ngũ đó phải được quan tâm, chăm lo đào tạo, rèn luyện chính trị, tư tưởng, có năng lực chuyên môn, đồng thời phải có đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm công dân, nếu không sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội phù hợp với môi trường văn hóa lành mạnh theo quan điểm của Đảng.
Việc đổi mới, tăng cường giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới thực chất cũng là nhằm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đa dạng, phong phú. Vì văn hóa Việt Nam muốn phát triển không thể không có lộ trình, kế hoạch cụ thể để quảng bá ra nước ngoài; muốn quảng bá phải có thiết chế văn hóa, phải đầu tư về con người và cơ sở vật chất cho nhiệm vụ này (một vài trung tâm văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài như hiện nay là không thể đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài). Đồng thời chọn lọc, giới thiệu những giá trị văn hóa của bè bạn thế giới vào nước ta cũng là công việc cần được quan tâm để làm sinh động thêm bức tranh văn hóa nước nhà.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng theo những nội dung trong Nghị quyết Đại hội XI là sự kiên định (kế thừa, bổ sung, phát triển) quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng trong hơn nửa thế kỷ qua, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đó, sẽ củng cố vững chắc thêm nền tảng tinh thần của xã hội.
Tóm lại, hướng tới tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dịp để chúng ta nhìn lại, khẳng định quá trình hình thành và phát triển tư duy của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, văn nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta; đồng thời đánh giá hiệu quả việc thể chế hóa của ngành văn hóa đối với các quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng và phát triển văn hóa trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, đáp ứng mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020./.
Nhạc sĩ Vũ Việt Hùng