Âm thầm cống hiến, lặng lẽ ra đi
Ðã có nhiều câu chuyện kể về những nghệ nhân tâm huyết với nghề, trải
dài theo thời gian, để rồi làm nên một lớp người sáng tạo và cống hiến,
hy sinh hết mình vì tinh hoa nghề nghiệp. Họ chính là "dòng chảy" lưu
truyền những giá trị văn hóa dân gian qua các thế hệ. Chủ tịch Hội Văn
nghệ Dân gian Việt Nam - GS, TS Tô Ngọc Thanh bồi hồi nhớ về nữ nghệ
nhân biểu diễn và truyền dạy hát hội chèo tàu - cụ Tiến Thị Lục: "Vài
năm sau khi trao thưởng danh hiệu nghệ nhân với vỏn vẹn chỉ 700 nghìn
đồng, tôi tìm đến thăm cụ và chúc Tết. Ðến nơi vẫn thấy chiếc phong bì
đặt ngay ngắn dưới lớp kính, tôi ngạc nhiên hỏi: Mấy đồng tiền sao chị
vẫn để đấy mà không lấy ra mua quà cho các cháu? Cụ Lục nạt lại: Ơ chú
này lạ nhỉ? Tôi mà nằm xuống thì chúng nó cũng phải gỡ cái khung ra và
cuộn cái phong bì bỏ vào áo để tôi còn có tiền xuống dưới đãi đằng người
ta. Tôi hỏi chú bao nhiêu người được phong nghệ nhân? Không sướng à?
Phải khoe chứ...". Năm đó, mới chỉ có vài chục nghệ nhân được phong tặng
danh hiệu nghệ nhân, nhưng cái quan trọng nhất là đối với những lão
nghệ nhân như cụ Tiến Thị Lục chính là niềm tự hào, là sự vinh danh cho
cả một đời người cống hiến vì đam mê; còn tiền bạc vật chất, có lẽ không
đáng gì. Ít năm sau, cụ qua đời và con cháu làm đúng theo di nguyện của
người mẹ, người bà, người thầy có công khôi phục lại hát hội chèo tàu
của địa phương sau 70 năm đứt đoạn.
Câu chuyện về một trong những người đầu tiên được Hội Văn nghệ Dân gian
Việt Nam phong tặng danh hiệu nghệ nhân trên đã lâu, nhưng đến giờ vẫn
mang đầy đủ giá trị của nó. Con người đến lúc nằm xuống mới thấy giá trị
tinh thần quý báu ra sao, song đối với những người ở lại, điều đó có đủ
xứng đáng và bù đắp đủ những thiệt thòi mà các nghệ nhân như cụ Tiến
Thị Lục hay bao nhiêu nghệ nhân khác đang phải chấp nhận như "số phận"?
Những người được nhận danh hiệu nghệ nhân xứng đáng được nhận sự quan
tâm của xã hội, của đất nước? Ðược truyền nghề trực tiếp theo những
phương thức dân gian cùng với năng khiếu, sự cần cù trau dồi tay nghề
qua năm tháng và qua những sinh hoạt cộng đồng nghề nghiệp, đã giúp họ
trở thành những người dẫn đầu trong lĩnh vực làm nghề, được cộng đồng
tôn vinh và tự hào. Chính họ sẽ là người lưu giữ và truyền dạy cho thế
hệ sau các vốn liếng văn hóa mà cộng đồng đúc kết sau hàng bao nhiêu thế
hệ. Ðó cũng là những tiêu chí nhìn nhận của Tổ chức UNESCO khi đề nghị
tặng họ danh hiệu "Báu vật nhân văn sống" (Living Human Treasures).
Thấu hiểu điều đó, suốt 10 năm qua, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam
không ngừng tìm kiếm, xác minh và trao tặng danh hiệu nghệ nhân cho
những người xứng đáng. Ðến nay, hơn 300 người đã vinh dự được nhận phần
thưởng cao quý nhất đối với các nghệ nhân dân gian Việt Nam. Ngoài danh
hiệu, Hội cũng cố gắng để tìm thêm nguồn tài trợ nhằm có được sự ủng hộ
động viên về kinh phí, chứ không chỉ là về tinh thần cho các nghệ nhân.
Kết quả là từ 700 nghìn đồng, đến nay, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã
nâng lên mức 1 triệu 200 nghìn đồng. Tuy vẫn ở mức "khiêm tốn" nhưng
những nỗ lực của Hội qua một chặng đường dài để tìm lại vị thế xứng đáng
và sự động viên đối với các nghệ nhân.
Có thể nói, công lao giữ gìn các giá trị của lịch sử, bảo tồn tinh hoa
văn hóa truyền thống dân tộc của các nghệ nhân là vô cùng lớn. Sự cố
gắng vinh danh họ chính là bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, là niềm tự hào
cho những tiếp diễn văn hóa của các thế hệ, nhưng nếu không nhanh và
không kịp thời có được sự vinh danh đó, chúng ta sẽ phải hối hận khi các
"báu vật nhân văn sống" ấy ra đi, khi đó một phần quá khứ và văn hóa
dân tộc cũng mãi mãi không còn.
Chưa thống nhất giữa các cơ quan hữu quan
Dự thảo Nghị định quy định xét tặng danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ
nhân Ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể vẫn đang được chỉnh
sửa thông qua những đóng góp thẳng thắn của rất nhiều chuyên gia. Theo
các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, thì việc truy tặng Nghệ nhân Nhân
dân cho những nghệ nhân đã mất trước ngày Nghị định có hiệu lực năm năm
là không có cơ sở thực tiễn. Thí dụ các cụ như: Cao Văn Lầu (1892-1976),
Nguyễn Quang Ðại (người đặt nền móng cho đờn ca tài tử Nam Bộ),... là
những người mất từ rất lâu, nhưng những gì cuộc đời, sự nghiệp của các
cụ để lại đến nay vẫn là dấu mốc đáng tự hào chưa thể thay thế. Chưa nói
đến bao nhiêu năm qua, hơn nửa số nghệ nhân lần lượt qua đời vì tuổi
cao sức yếu, trong khi đó, một chút vinh quang của cái danh "báu vật
sống" vẫn chỉ trong... hư vô.
Việc hiểu rõ khái niệm nghệ nhân để xét trao tặng cho đúng người, đúng
việc cũng là vấn đề mà Nghị định tới đây cần phải làm chuẩn xác. Theo
GS, TS Tô Ngọc Thanh: "Các loại hình như ca trù có cả người làm thơ, có
cả người hát hoặc như hát xẩm thì có cô đào cũng phải có người chơi nhạc
cụ dân tộc... Nếu cứ theo thói quen chỉ xét trao tặng cho người hát ca
trù mà bỏ quên người viết thơ, trao tặng người hát xẩm mà lại không nghĩ
đến người chơi nhạc thì quá là thiệt thòi trong khi vai trò của họ
không hề nhỏ". Về hồ sơ và các thủ tục xét tặng cũng cần được kiện toàn
hơn, hợp lý hơn. Trong đó kể cả việc cho phép một số tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm, có trình độ đứng ra làm hồ sơ giúp các nghệ nhân không
biết chữ (các nghệ nhân dân tộc thiểu số) hoặc không có đủ điều kiện sức
khỏe (các nghệ nhân quá già yếu) để trực tiếp làm hồ sơ.
Những người được đề xuất xét tặng các danh hiệu trong dự thảo công nhận
danh hiệu nghệ nhân vẫn còn nhiều bất hợp lý dẫn tới sự chồng chéo đến
các điều, quy định khác. Các chuyên gia văn hóa cho rằng, Nghị định cần
có phạm vi điều chỉnh cụ thể tới khu vực "Nghề thủ công truyền thống".
Rõ ràng, Công ước về Di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 khẳng định:
"Nghề thủ công truyền thống" là một trong năm hình thức thể hiện của Di
sản văn hóa phi vật thể. Vậy dự thảo cho phép Bộ Công thương đảm trách
riêng việc đề xuất phong tặng nghệ nhân nghề thủ công truyền thống là
bất hợp lý và gây chồng chéo trong quản lý điều hành. PGS, TS Ðỗ Văn Trụ
thuộc Hội Di sản văn hóa Việt Nam góp ý: "Nếu đã xét tặng các danh hiệu
về nghệ nhân, Nghị định cần quy về một mối là Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, nơi đóng vai trò tham mưu cũng như bảo đảm yêu cầu khoa học và
tính khả thi cho công tác này". Chính vì sự bất hợp lý gây chồng chéo,
mất nhiều thời gian cùng nhiều lý do khác mới dẫn đến việc 12 năm qua,
mặc dù Luật Di sản văn hóa đã ra đời, song những quyền lợi cho các nghệ
nhân vẫn cứ bị bỏ ngỏ.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến nay vẫn tiếp tục giải thích nhiều
lý do cho sự chậm trễ trong việc hoàn thiện Nghị định công nhận hai danh
hiệu nghệ nhân nêu trên. Trong đó có lý do là vì không thống nhất được
với quan điểm của Bộ Công thương. Trước đó, trong Ðiều 65 của Bộ luật
Thi đua - Khen thưởng năm 2009 thì việc xét tặng nghệ nhân chỉ trong
phạm vi lĩnh vực thủ công truyền thống và đơn vị được Chính phủ giao
quyền lại là Bộ Công thương. Nhưng xét thấy thực tiễn cần thay đổi vì sự
bất hợp lý này, Quốc hội năm 2009 đã sửa đổi Ðiều 3 trong Bộ luật Thi
đua - Khen thưởng: Danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú sẽ được
trao cho những người có công, có tài trong việc bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa phi vật thể cũng như việc chủ trì công tác này được
chuyển sang Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp Bộ Công thương và
các ngành liên quan. Ðáng tiếc là đến năm 2012, Bộ Công thương vẫn kiên
quyết giữ nhiệm vụ trao tặng trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ. Chính sự
nhùng nhằng này kéo dài cho đến bây giờ và dự thảo vẫn được đề xuất với
việc sẽ có hai nghị định áp dụng trong việc phong tặng Nghệ nhân Nhân
dân và Nghệ nhân Ưu tú: một do Bộ Công thương soạn thảo (Nghề thủ công
truyền thống), hai là do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch soạn thảo cho
các lĩnh vực còn lại của văn hóa phi vật thể.
Bỏ qua việc liệu cách làm nào là đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý,
nhưng sự kéo dài và chậm trễ suốt nhiều năm qua là sự thiệt thòi quá
lớn đối với các nghệ nhân. Họ xứng đáng được tôn vinh, được nhận đủ
quyền lợi sau những cống hiến cả đời cho văn hóa dân tộc thay vì việc
theo đuổi một thứ gì đó khiến họ có cảm giác "xin - cho". Thiết nghĩ, để
các "báu vật sống" được "sống" thì cơ quan quản lý phải nhập cuộc nhanh
và hiệu quả hơn nữa.
Vui cho mình ít, vui cho nghiệp nhiều
Nghệ nhân dân gian ẩm thực Ánh Tuyết tâm sự: "Di sản là của nhân dân,
có sự tiếp nối qua các thế hệ. Ở nước ngoài có cả những viện nghiên cứu
cho một lĩnh vực cụ thể để lưu truyền, song ở Việt Nam thì các nghệ nhân
cứ âm thầm bảo tồn, âm thầm lưu truyền chỉ vì đam mê mà không có mấy sự
hỗ trợ từ bất cứ cơ quan nào là rất khó khăn". Ðối với nghệ nhân rối
cạn phường rối Tế Tiêu (Hà Nội) Phạm Văn Bể thì những người gần đất, xa
trời như ông, danh hiệu giờ cũng chẳng để làm gì. Nhưng ông cũng cho
biết, điều đó lại rất quan trọng với con cháu đời sau vì cả đời cha ông
cống hiến mà không được "một chút vinh danh" thì liệu có còn động lực để
theo đuổi và bước tiếp? Nghệ nhân làng nghề mây tre đan Phú Vinh,
Chương Mỹ (Hà Nội) Nguyễn Văn Trung, người nổi tiếng với những tác phẩm
mây tre đan hình Bác Hồ chia sẻ: "Ngay cả những người giỏi nhất để hoàn
thiện được nghề cũng phải mất rất nhiều thời gian, thậm chí cả cuộc đời.
Người trẻ bây giờ thực dụng lắm, phải cho họ niềm tin mới giúp duy trì
niềm đam mê". Một nghệ nhân quan họ ở Bắc Ninh khẳng định: "Sự tiếp nối
đam mê của các thế hệ sau thật sự quan trọng. Liệu họ có đủ sự hỗ trợ
cần thiết trước cuộc sống mới vốn có rất nhiều đổi thay so với thời cha
ông? Ðiều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự quan tâm và đồng lòng của các
cấp quản lý".
Tựu trung lại, dù Nghị định công nhận danh hiệu nghệ nhân ra đời có đem
lại sự vinh danh cho các nghệ nhân hay không, tuy nhiên hầu hết trong
số họ đều "Vui cho mình một mà vui cho cái nghiệp suốt cả kiếp người
mười lần". Một danh hiệu cũng chỉ có giá trị khi nó đem lại những hiệu
ứng cho thế hệ sau thêm động lực, thêm sức mạnh tiếp bước trong nghề của
cha ông và chỉ mong sao những hy vọng nhỏ bé, những mong muốn giản đơn
đó sớm trở thành hiện thực.
Tháng 4 vừa qua, Hội thảo góp ý Dự thảo Nghị định quy định xét tặng
danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú trong lĩnh vực di sản văn
hóa phi vật thể, theo Cục trưởng Cục Di sản văn hóa Nguyễn Thế Hùng, đã
thu thập được 60 ý kiến đóng góp từ các sở, hội nghề nghiệp và hơn 100
văn bản góp ý của các đơn vị liên quan để có cơ sở đưa ra một Dự thảo
gồm 5 chương và 21 điều. Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Ðặng
Bích Liên mới đây cũng đã khẳng định: Ban soạn thảo Nghị định công nhận
danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân và Nghệ nhân Ưu tú sẽ tiếp tục nghiên cứu,
điều chỉnh, xin ý kiến của các bộ, ngành, cơ quan chức năng, phấn đấu
trong năm nay sẽ hoàn thiện Nghị định để trình Chính phủ ban hành. Với
lời khẳng định này, các nghệ nhân và những người tâm huyết với văn hóa
truyền thống của dân tộc đang kỳ vọng về sự ra đời sớm của Nghị định với
sự thống nhất giữa các ban, ngành liên quan.
Nghệ nhân Phạm Văn Bể, phường rối Tế Tiêu, Hà Nội.
PHONG CHƯƠNG/Báo Nhân Dân