“Điểm yếu” và “yếu điểm” khác nhau. “Điểm yếu” là khuyết điểm, nhược điểm, là cái phần dở (không mạnh). Còn “yếu điểm” là cái chính, có thể dở, có thể hay. Âm tiết “yếu” trong “điểm yếu” là yếu-mạnh; còn trong từ “yếu điểm” lại mang nghĩa chính-phụ. Nói “Yếu điểm của chúng ta hiện nay là chưa có một đội ngũ quản lý kinh tế thực sự tài năng, vững vàng” là không chính xác, mà phải nói: “Điểm yếu của chúng ta…”. Phải nói: “Điểm yếu của chúng tôi là rất nhiều anh chị em tuy có nhiệt tình, có kinh nghiệm và nhận thức tốt, nhưng chưa được đào tạo chính quy, có hệ thống về kiến thức chuyên môn” thay vì nói “Yếu điểm của chúng tôi…”. Nói “Yếu điểm của anh ấy là rất thông minh, nhạy cảm và năng động, nhanh chóng nắm bắt mọi vấn đề và nghĩ ngay được những cách thực thi công việc có hiệu quả nhanh” là đúng nếu ưu điểm trên là nét nổi bật, rõ nhất của đối tượng. Nhiều người dễ cho rằng nói vậy là sai, cứ tưởng “yếu điểm” là “khuyết điểm” (lầm lẫn với “điểm yếu”).
Thông thường chúng ta vẫn nói: “Chiến tranh nhân dân chính là nguyên nhân lớn dẫn đến thắng lợi cuối cùng của chúng ta với những giặc ngoại xâm to lớn, có vũ khí tối tấn hơn ta gấp bội”. Nhưng nếu nói “Chiến tranh nhân dân là yếu điểm dẫn đến…” cũng hoàn toàn chính xác, bởi như đã nói ở trên, “yếu điểm” là điểm chính, cốt yếu. Tuy nhiên nói như trường hợp thứ hai có vẻ như chưa quen. Nhưng bắt buộc ta phải làm quen dần với cái đúng, cái chính xác, khoa học, không thể cứ quen mãi cái sai.
“Tồn tại” là một từ bị rất nhiều người dùng sai. Ta luôn nghe ở các hội nghị, hội thảo, trên báo chí và khắp nơi: “Đơn vị chúng ta năm qua đã hoàn thành tốt kế hoạch, tuy vậy vẫn còn một số tồn tại…”; “Thời gian tới chúng ta phải kiên quyết khắc phục một số tồn tại…”; “Tồn tại của chúng ta còn nhiều nên đã hạn chế thành tích chung…”. Trong bản tự kiểm điểm công tác của nhiều người, có cả các vị có kiến thức lớn cũng viết: “Bên cạnh những ưu điểm trên, tôi còn một số tồn tại…”.
Những câu nói, câu viết trên chứng tỏ tác giả đã đồng nghĩa “tồn tại” với khuyết điểm, nhược điểm - những cải dở, yếu kém cần phải khắc phục. Rất nhầm. “Tồn tại” là từ trong triết học chỉ tất cả những gì đang có, là những cái hiện hữu. Những cái đó đã “tồn tại” - tức là đã xuất hiện - nằm ngoài ý thức chủ quan của con người. Người ta muốn công nhận hay không công nhận cũng chẳng được. Mọi thứ vẫn cứ “tồn tại”. Ví dụ trước mắt chúng ta là một con đường rộng rãi, rất đẹp. Dù ai cứ cố tình bảo rằng không có cũng không có giá trị gì, bởi con đường đang “tồn tại” kia.
Có thể có những kẻ cố tình không thấy công cuộc đổi mới của đất nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu, cố tình phủ nhận, thậm chí xuyên tạc, nhưng công cuộc ấy đang diẽn ra từng ngày, từng giờ, ở tất cả mọi lĩnh vực xã hội, quanh ta. Nó đang “tồn tại” kia. Người ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, sờ nắm được.
“Chủ nghĩa xã hội” là danh từ, còn “xã hội chủ nghĩa” là tính từ, không thể lầm lần. Vậy mà không ít người cứ nói: “Chúng ta xây dựng xã hội chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu…”. Phải nói: “Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội…” hoặc “Chúng ta xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa…” (phải có 2 từ “xã hội” liền nhau, bởi vì sau từ “xây dựng” (là động từ) phải là danh từ, chứ không thể là tính từ).
“Cổ điển” khác với “cổ lỗ”, “cổ hủ”. “Cổ điển” là một phương pháp sáng tác của văn học nghệ thuật ở Pháp thế kỷ XVII, tiêu biểu là các nhà viết kịch Cooc-Nây, Ra-Xin với luật tam nhất rất chặt chẽ trong sân khấu. Rộng hơn, “cổ điển” chỉ những giá trị mẫu mực đã được thừa nhận qua các thời đại, ví như “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du là một tác phẩm cổ điển của văn học Việt Nam.
Còn “cổ lỗ”, “cổ hủ” chỉ sự lạc hậu, cũ kỹ. Nhiều người nói: “Các cụ ta ngày xưa quan niệm rất cổ điển về việc trai gái gặp nhau…” Phải sử dung từ “cổ hủ” thay thế câu trên. Một nhà tuyên huấn đã nói chuyện ở một Câu lạc bộ Tuyên giáo nọ: “Nếu chúng ta không thay đổi nếp suy nghĩ đến hôm nay đã trở nên rất cổ điển thì khó lòng tiến kịp thời đại…” Phải dùng từ “lạc hậu” thay thế từ “cổ điển” trong trường hợp trên.
Để chỉ những việc làm mờ ám, gian dối, biển lận, có tính che giấu để đạt lợi ích cá nhân một cách không đàng hoàng, người ta dùng từ “Khuất tất”. Từ này không dùng để chỉ những việc làm dở, xấu chung chung. Nói: “Vụ án này cần phải được điều tra lại vì nhiều điều chưa được sáng tỏ do những người đầu tiên bắt tay vào điều tra có biểu hiện khuất tất” là chính xác. Nhưng nếu nói: “Kẻ phạm tội trả lời có nhiều điều khuất tất” là không chính xác. Từ này chỉ hành động, việclàm chứ không chỉ lời nói. Câu trên cần đựoc nói (hoặc viết) lại như sau mới đúng: “Kẻ phạm tội trả lời có nhiều điều không đúng với sự thật, không khớp với những chứng cứ”.
Nói “Bản thành tích của anh ta còn khuất tất” là không đúng, mà phải nói “Bản thành tích của anh ta còn đáng nghi ngờ vì chưa chắc đã đúng sự thật, hoặc nói “Để có được bản thành tích này, anh ta đã phải làm những việc khuất tất”.
Hiện nay, không ít người đã dùng từ “Bất cập” nhưng không hiểu rõ nghĩa nên đã dùng sai. “Bất” là không, “cập” là tới. Trong câu tục ngữ “Lúc thì thái quá, lúc thì bất cập”, cần hiểu: Lúc thì quá mức (thái quá), lúc thì lại chưa tới, chưa đến độ (bất cập). Vậy “bất cập” là không tới, không đạt độ cần thiết. Như vậy từ này không thể lạm dụng chỉ mọi sự yếu kém, chất lượng thấp được.
Không nói: “Lô hàng này bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu”. Trong câu trên, từ “bất cập” cần được thay thế bằng từ “chất lượng kém”. Nói “Qua kỳ thi thử vừa rồi, thấy rõ học sinh trường ta còn bất cập” có đúng không? Không đúng. Phải nói: “Học sinh trường ta còn non yếu, chưa đạt yêu cầu đào tạo”. Có thể nói: “Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng trình độ chuyên môn của chúng tôi vẫn còn bất cập”. Cần hiểu là sau “bất cập” luôn có một cái mức yêu cầu nào đó cụ thể, chưa đạt được mức đó tức là “bất cập”. Nói “Tuy chúng tôi luôn cố gắng hết mình, nhưng hạnh phúc gia đình vẫn bất cập” là quá lạm dụng từ chúng ta đang bàn. Tóm lại: từ này chỉ có nghĩa hẹp, cụ thể chứ không quá rộng.
Có một trường hợp ngay cả giới báo chí và giới viết lách cũng dùng không chính xác. Thường các biên tập viên vẫn nói với các cộng tác viên: “bài này, tối đa là 1.000 từ” (ví dụ). Phải nói là “1.000 âm tiết, hoặc 1.000 tiếng. Bởi vì, từ có thể chỉ 1 âm tiết (đơn âm), có thể gồm nhiều âm tiết (đa âm). Ví dụ “Chủ nghĩa xã hội” là một từ có 4 âm tiết (hoặc 4 tiếng), như vậy người viết sẽ cho là một từ, còn biên tập viên sẽ tính là 4 từ. Khi hoạ sỹ làm “mi-se” để lên khuôn báo, lại có biên tập viên vẫn nói “Cho 1.000 chữ” (ví dụ) cũng sai, bởi vì một từ “Tự do” có 4 chữ (t, ư, d, o) chứ không phải 2 chữ như biên tập viên trong ví dụ trên quan niệm.
Trên đây là một số từ hay bị sử dụng nhầm lẫn so với nghĩa thực của nó, điều đó đã làm hạn chế tính thuyết phục của bài viết, bài nói. Mong rằng tình trạng trên được khắc phục. Cần rèn luyện thói quen dùng từ ngữ chuẩn xác và “đắt” trong từng văn cảnh./.
Nguyễn Đình San