CẬY QUYỀN, Ỷ THẾ LÀM CHO DÂN GHÉT, DÂN KHINH
Chỉ ít ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một số bài viết, cảnh báo một số thói hư, tật xấu đang xuất hiện tại các cơ quan công quyền. Trong các bài viết đó, ở các góc độ tiếp cận khác nhau, Người đã chỉ ra vấn nạn cậy quyền, ỷ thế và nguy cơ, tác hại của nó, khiến nhân dân bức xúc, bất bình.
1) Trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà” (tỉnh Nghệ An), ngày 17/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cán bộ ta nhiều người cúc cung tận tụy, hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể[1] và “những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động”[2].
2) Trong bài báo “Sao cho được lòng dân”, đăng báo Cứu quốc, số 61, ngày 8/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Xung quanh các Ủy ban nhân dân, một vài nơi tiếng phàn nàn oán thán nhiều hơn tiếng người khen”[3] và theo lời Người, “những Ủy ban đó không những không được dân yêu, còn bị dân khinh, dân ghét là khác nữa”. Dân khinh, dân ghét là bởi vì “cái tật ngông nghênh, cậy thế, cậy quyền”[4] của những ông chủ tịch, ủy viên - những người lẽ ra là “công bộc” của dân, nhưng đã và đang hành động theo tâm thế “phụ mẫu” của dân. Xuất phát từ sự ngông nghênh, lạm dụng khi “nắm được chút quyền trong tay”, nên “mấy ông tỉnh trưởng kia vác ô tô đưa bà “tỉnh trưởng” đi chơi mát mỗi buổi chiều”, nên đã “đi đến chỗ ỷ thế, cậy quyền, làm nhiều điều quá tệ”.
3) Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cậy thế - Cậy thế mình ở trong ban này nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân… Kiêu ngạo - Tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi. Coi khinh dân gian, nói phô, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên. không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ”[5].
Những người tự coi mình là “quan cách mạng” này đã mang nặng chủ nghĩa cá nhân, chỉ nghĩ đến mình trước hết, không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”. Những biểu hiện của bộ phận cán bộ, đảng viên này trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, thực hiện kỷ luật, chế độ công tác, trong sinh hoạt và trong quan hệ với quần chúng nhân dân đã dẫn đến nhiều sai lầm nghiêm trọng, trở thành nguy cơ của Đảng cầm quyền. Tuy xảy ra ở những nơi khác nhau, với các mức độ biểu hiện khác nhau, song tựu trung lại thì đó chính là sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Vấn nạn này không chỉ làm mất đi tính tiền phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn làm cho quần chúng nhân dân bức xúc, không tin, không phục, không yêu, dẫn đến rạn nứt niềm tin của nhân dân vào các cơ quan công quyền, vào vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Không chỉ nêu ra, chỉ rõ những căn bệnh đang hiện hữu, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đồng thời chỉ ra biện pháp để khắc phục những vẫn nạn này. Trong bài viết “Chính phủ là công bộc của dân”, đăng trên báo Cứu quốc, số 46, ngày 19/9/1945, Người chỉ rõ: “Người xưa nói: Quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của dân lên hết thảy”[6].Vì thế, muốn “làm những việc có lợi cho dân, không phạm vào công lý, vào tự do của dân chúng”, muốn cán bộ được dân tin, dân yêu, dân kính thì nhất định “phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các Ủy ban đó”[7]; đồng thời, phải kiểm tra, giám sát để “những nhân viên Ủy ban sẽ không lợi dụng danh nghĩa Ủy ban để gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình”[8]
Để vừa lòng dân, “muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”[9] và “trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”[10]. Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên công tác tại các cơ quan công quyền cần “phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới”[11]. Đồng thời, trong quan hệ công tác, ứng xử với nhân dân thì "ta phải có một thái độ mềm dẻo, khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta. Phải tỏ cho mọi người biết rằng công việc là công việc chung, thiếu người ra gánh vác thì mình ra, nếu có người thay, mình sẽ nghỉ để làm việc khác, sẵn sàng nhường lại cho ai muốn làm và làm được”[12].
Yêu cầu cán bộ, đảng viên phải xứng đáng là công bộc của dân, về phần mình, Người nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh, phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, một ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[13].
Luôn thống nhất giữa nói và làm, gương mẫu thực hiện trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh, cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực của tấm gương người công bộc, hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, đúng như Sêraphin D.Quysơn trong bài viết "Hồ Chí Minh: Một người châu Á cho mọi thời đại" đã khẳng định: "Ít người châu Á nào lại được nhân dân yêu mến như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người thực sự là thần tượng của nhân dân mình. Hiếm người châu Á nào lại đóng một vai trò quan trọng như vậy trong việc tạo dựng một dân tộc mới như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cả sự nghiệp của mình, Người luôn xuất phát từ tinh thần hết lòng phục vụ nhân dân, vừa bằng những kiến thức uyên bác, kinh nghiệm và tài nghệ của mình, vừa bằng sự tận tâm và liêm khiết, để giành được sự kính trọng và biết ơn của nhân dân"[14].
VẤN NẠN CẬY QUYỀN, Ỷ THẾ NGÀY CÀNG TĂNG
Hơn 70 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết 3 bài báo này, vấn nạn cậy quyền, ỷ thế Người chỉ ra từ những ngày đầu chính quyền cách mạng mới được thiết lập dường như đã không còn là hiện tượng đơn lẻ mà có nguy cơ ngày càng gia tăng. Vì thế, những cảnh báo của Người, chỉ dẫn của Người về tinh thần và phận sự của người cán bộ trong những bài báo, biện pháp để phòng chống thói cậy thế, ỷ quyền của những người coi mình là "phụ mẫu" của dân như đã nêu trên vẫn vẹn nguyên ý nghĩa thời sự.
Là những cán bộ, đảng viên được bầu/giao/ủy thác thay mặt dân đảm trách những công việc tại các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong hệ thống chính trị, nhưng nếu không thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, không phụng sự Tổ quốc và nhân dân với tinh thần liêm khiết, chí công vô tư thì chính họ sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân, đe dọa sự tồn vong của Đảng cầm quyền và chế độ. Không chỉ đau đáu về những điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn trong Di chúc và nhấn mạnh yêu cầu "mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư..."[15]. Vì vậy, tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của một Đảng cách mạng trở thành yêu cầu bức thiết, không chỉ là yêu cầu khách quan của thời cuộc mà còn là nhu cầu tự thân của Đảng, để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII ngày 31/10/2016 về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ” (Nghị quyết) đã nhấn mạnh: Đại hội XII của Đảng đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản; trong đó, nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra 27 biểu hiện của sự suy thoái; cụ thể, một số biểu hiện của việc cậy quyền, ỷ thế là:
1) Thể hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị là: “Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”.
2) Thể hiện sự suy thoái về đạo đức, lối sống là: “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể… Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực… Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi”…
|
Dù biểu hiện ở dưới dạng này hay dạng khác, thì vấn nạn cậy quyền, ỷ thế không chỉ cho thấy sự suy thoái về phẩm chất và năng lực của một bộ phận cán bộ, đảng viên “đã biến chất” mà còn phản ánh mức độ sự suy thoái quyền lực nhà nước mà Đảng Cộng sản đang cầm quyền. Vì thế, với quan điểm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật; kết hợp giữa “xây” và “chống”; trong đó, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”, Nghị quyết yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Đồng thời cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng và người đứng đầu có thể tự soi mình vào đó, để có định hướng tự sửa chữa, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu.
PHÒNG, CHỐNG VÀ NGĂN NGỪA CẬY QUYỀN, Ỷ THẾ
Đưa Nghị quyết vào cuộc sống, trong gần 3 năm qua, cấp ủy Đảng các cấp đã tổ chức thực hiện nghiêm túc, có trọng tâm, trọng điểm việc nhận diện các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gắn liền với tự phê bình và phê bình, với kiểm tra và giám sát theo kế hoạch hằng năm và đột xuất. Nhất là, đã gắn thực hiện Nghị quyết với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05), coi đó là giải pháp đột phá để thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong chương trình hành động, các cấp ủy đã chú trọng công tác học tập, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng; đã xây dựng chương trình và chế độ học tập lý luận trong Đảng bảo đảm đúng đối tượng, trong đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, về đối tượng đi học, cấp học, nơi học; đã chú trọng việc xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức công vụ phù hợp điều kiện cụ thể; đồng thời, chủ động phòng, chống và đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan báo chí và nhân dân đã phát huy vai trò của mình trong đấu tranh, phòng, chống và góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nhiều cách làm mới, sáng tạo trong thực hiện Nghị quyết gắn với thực tiễn như: đổi mới việc học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; thực hiện cải cách thủ tục hành chính; kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân gắn với nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ; tăng cường công kiểm tra, giám sát, thanh tra, nhất là các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, tham ô, tham nhũng... đã mang lại hiệu quả thiết thực tại các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh đó, mỗi cấp ủy đã đề cao và phát huy vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi tổ chức, địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là trong thực thi quyền lực theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, đã có phân định thẩm quyền về trách nhiệm của tập thể và cá nhân, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng để phòng, chống và ngăn ngừa các biểu hiện suy thoái, trong đó có cậy quyền, ỷ thế, lạm dụng quyền lực.
Một số cấp ủy đã nghiêm túc, công tâm sàng lọc và kịp thời đánh giá, kiểm điểm, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ vi phạm kỷ luật Đảng, lạm dụng quyền lực, cậy thế, cậy quyền, lợi dụng quyền lực để mưu lợi ích cho mình, cho người thân và nhóm lợi ích, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thông qua việc nghiêm túc tiến hành kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết được thực hiện rộng rãi, những tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước đã bị xử lý kỷ luật, không có ngoại lệ, không có vùng cấm (dù đang đương chức hay đã nghỉ hưu). Thực tế, cấp có thẩm quyền đã kỷ luật một tổ chức đảng, 13 đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, đã có trên 70 cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị kỷ luật Đảng và xử lý hình sự.
Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng; phòng và chống tham ô, tham nhũng tiếp tục được duy trì, đẩy mạnh theo hướng có chiều sâu, đạt kết quả toàn diện, đồng bộ, rõ nét hơn. Cụ thể, các cơ quan chức năng đã mở rộng điều tra, làm rõ hành vi đưa, nhận hối lộ tại Tổng công ty Viễn thông Mobifone; trong đó, cựu bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son bị Cơ quan Cảnh sát điều tra (Bộ Công an) xác định là chủ mưu của nhóm 13 người phạm tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng trong vụ án sai phạm đầu tư công khi MobiFone mua 95% cổ phần của AVG. Cùng với đó, các vụ án liên quan đến Phan Văn Anh Vũ/Vũ "nhôm", Đinh Ngọc Hệ/Út "trọc"; khởi tố điều tra vụ án xảy ra tại dự án cải tạo và mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - Công ty Gang thép Thái Nguyên... đang được tiến hành nghiêm minh theo quy định của pháp luật, cho thấy vấn nạn cậy quyền, ỷ thế của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức quyền đã gây hậu họa nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.
Ông Nguyễn Bắc Son, cựu Bộ trưởng Thông tin Truyền thông. Ảnh: MIC
Có thể nói, việc thực hiện nghiêm túc, đồng bộ 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết gắn với thực hiện Chỉ thị 05 đã tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần giải quyết dứt điểm nhiều vụ, việc nổi cộm, phức tạp ở nhiều địa phương, đơn vị trong cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết vẫn còn hạn chế như: Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ; tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống dẫn tới phải xử lý kỷ luật vẫn còn ở không ít cấp ủy.
Việc nắm bắt tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở một số nơi vẫn còn thiếu chủ động, dẫn đến việc giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân còn chậm. Tình trạng đơn thư, khiếu kiện vượt cấp vẫn còn và kéo dài. Trong khi đó, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát ở một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên tiến hành chưa nghiêm. Việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu ở một số địa phương, đơn vị kết quả chưa được chưa toàn diện, chưa sâu sắc.
Thời gian tới, để phòng, chống và ngăn chặn sự tha hóa “muôn màu muôn vẻ” của tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có chức vụ, quyền hạn đang đảm nhiệm các vị trí then chốt tại các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước và trong hệ thống chính trị, cấp ủy các cấp cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng; chú trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và mở rộng thực hiện dân chủ trong Đảng; tăng cường thực hiện tự phê bình và phê bình trên cơ sở của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết gắn với Chỉ thị 05, Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, với các quy định về nêu gương, quy định về những điều đảng viên không được làm... Trong đó, mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu phải phát huy tính tiền phong, gương mẫu, đi đầu trong công tác, trong sinh hoạt để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc tại địa bàn cơ sở. Coi kết quả rèn luyện, phấn đấu của cán bộ, đảng viên về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức ở cơ quan và địa bàn cư trú là cơ sở để đánh giá, xếp loại thi đua hằng năm của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị, là cơ sở xem xét quy hoạch, bổ nhiệm ở chức vụ cao hơn.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với các phong trào thi đua yêu nước, qua đó nâng cao tinh thần phụng sự và liêm chính trong thực thi công vụ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đưa sinh hoạt chi bộ hằng tháng theo chuyên đề gắn với các nội dung chuyên đề năm 2019 “Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" trở thành nền nếp, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Ba là, nâng cao tinh thần chủ động phòng và chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với cảnh giác, chủ động phòng, chống và đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch. Ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy lùi và quét sạch tư tưởng cá nhân chủ nghĩa thông qua việc nhận diện, đánh giá đúng các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân; thông qua công tác kiểm tra, giám sát, tự phê bình và phê bình... để làm trong sạch từng tổ chức cơ sở Đảng.
Bốn là, công tác cán bộ, nhất là chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng phải được đặc biệt chú trọng trên cơ sở xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị, người đứng đầu và các cá nhân liên quan. Tăng cường kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật; đồng thời, xây dựng cơ chế, chế tài kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực minh bạch. Phát huy vai trò phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên để nâng cao hiệu quả sự kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa, phòng và chống sự tha hóa quyền lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có chức vụ, quyền hạn.
Năm là, chú trọng công tác tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết gắn với nhân rộng các gương điển hình tiên tiến của cá nhân và tập thể trong phòng và chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng: “nói đi đôi với làm”, “nói ít, làm nhiều”, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng, để tạo sự lan tỏa trong cộng đồng trên tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đồng thời, khắc phục những hạn chế, yếu kém, sơ hở trong công tác cán bộ, để lựa chọn, quy hoạch, bồi dưỡng, bổ nhiệm những cán bộ đủ đức và tài, luôn tận tân, tận lực phụng sự lợi ích của Tổ quốc và nhân dân./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.20.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.20.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.51.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.51.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.65-66.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.21.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.21.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.22.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.51.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.52.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.51-52.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.52.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.187.
[14] Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Unesco và Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.110-111.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611-612.