Nằm ở bệnh viện, hàng ngày ông vẫn gặp vợ và các con cháu, vẫn hỏi han về những diễn biến của cuộc sống bên ngoài giường bệnh của ông. Bộ óc của con người huyền thoại đã trăm tuổi ấy vẫn toả ra ánh sáng lấp lánh của trí tuệ và ý chí… Gương mặt ông những ngày này được các con ông mô tả “vẫn rạng lên nét thanh thản, hạnh phúc.
Một buổi chiều Hà Nội đầu năm 2010, tôi có cuộc hẹn cần đi dọc theo đường Hoàng Diệu để ra phố Nguyễn Thái Học. Khi xe sắp chạy qua ngôi biệt thự đẹp nhất trên con đường có di tích Hoàng Thành Thăng Long, tôi nhờ người lái taxi đi chậm lại. Đã nhiều lần như thế. Như một thói quen không cưỡng được. Ngôi nhà mang số 30 ấy đẹp hoàn toàn không phải vì nó rất to, mà chỉ vì để vào nhà, khách được đi ngang qua một khoảng sân cỏ xanh um và rất rộng. Đường nét kiến trúc giản dị, ngôi nhà không bị bất kỳ bờ tường rào nào che giấu, chỉ là nó hơi lùi xa tầm mắt một chút và có vẻ như hơi nép vào tàn lá xanh sẫm của những gốc cổ thụ.
Với tôi, từ khi mới bảy, tám tuổi chưa biết thấu cảm vẻ đẹp của ngôi nhà, đã biết rõ đó là nhà của bác Giáp, Đại tướng Tổng tư lệnh, thủ trưởng tối cao của ba tôi – một sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Như nhiều người Việt Nam thuộc các thế hệ khác nhau, tôi và đám bạn học cấp một ở trường Nguyễn Trãi trên phố Cửa Bắc những năm sáu mươi thế kỷ trước và nửa thế kỷ trưởng thành sau đó luôn xem ông Giáp là một thần tượng.
Ông là thần tượng của thế hệ chúng tôi và các thế hệ khác, ở trong nước và cả ở nước ngoài có lẽ bởi vì ông nổi tiếng nhưng ông không để và không thích ai khắc hoạ chân dung ông theo kiểu “số 1” và “một mình làm nên tất cả”. Vừa sôi nổi vừa biết khắc chế bản thân, vừa sâu sắc và rộng rãi trong tư duy lại vừa gần gũi cụ thể trong thực tiễn, vừa uyên bác vừa lãng mạn, có thể cũng chính vì những điều ấy mà ông được quân đội và nhân dân gần như tuyệt đối yêu mến, kính trọng. Tướng Giáp đã sống trọn một thế kỷ bằng ý chí cá nhân được hun đúc từ truyền thống yêu nước và học thức của gia đình, bằng tình cảm đồng chí đồng đội và cả xã hội dành cho ông. Nhưng, ngoài những điều đó, phải nói là ông thật may mắn có được một ngôi nhà đầy ắp hạnh phúc tình chồng vợ, cha con, ông cháu. Như một bến đỗ bình yên mà con người bình thường nào cũng hằng mơ ước…
Trong cuộc đời đã sang độ trăm năm của mình, tướng Giáp là một người đàn ông may mắn. Tôi không có được dịp nào để hỏi ông, rằng ông có đồng ý với nhận định ấy không. Nhưng, nhân gian chẳng đã nói đấy thôi: đâu có ai chọn được cửa để sinh ra. Ông may mắn xuất thân trong một gia đình mà người cha sống bằng nghề dạy chữ và bốc thuốc, còn người mẹ là một phụ nữ nội trợ rất thông minh và phúc hậu. Dân nhiều đời ở thôn An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, còn mãi truyền nhau lòng biết ơn và niềm kính trọng đối với các cụ thân sinh của tướng Giáp. Đó là những con người chỉ biết lấy sự lương thiện, sự trung thực, nghĩa khí và sự hiểu biết để hết mực giúp những người xung quanh khi họ cần đến mình, bất chấp mọi sự phiền luỵ, thậm chí nguy hiểm.
Khi Pháp đến bắt ông cụ và yêu cầu gọi đứa con “phiến loạn” Võ Nguyên Giáp và các đồng chí ra đầu thú chính quyền thực dân, cụ đã thản nhiên chịu đựng mọi sự khảo tra của chúng và trả lời: “Tôi chưa kịp dạy nó nên sống thế nào, nên làm gì trong lúc nước nhà tối tăm như ri thì nó đã bỏ nhà đi rồi. Nay nhờ các ông bắt nó về đây cho tôi dạy”.
Ở tuổi vị thành niên, đang là học sinh Quốc học Huế, Võ Nguyên Giáp lại có may mắn được quen biết nhiều người cùng tâm nguyện, chí hướng. Đặc biệt là Giáp có tình bạn vong niên thân thiết với thầy giáo Quốc học Đặng Thai Mai – người đã để lại dấu ấn tinh thần quan trọng trong phần lớn cuộc đời chính trị và binh nghiệp của Võ Nguyên Giáp. Thầy Mai nhiều hơn trò Giáp 12 tuổi. Họ thân nhau, cùng nhau trải qua nhiều sóng gió cơ sự. Cả hai thầy trò đều bị Pháp bắt vì hoạt động yêu nước vào năm 1930, trong số người bị bắt còn có Nguyễn Thị Quang Thái – nữ sinh Đồng Khánh. Quang Thái là em gái của Nguyễn Thị Minh Khai – người nữ chiến sĩ cách mạng kiêm nữ sĩ của nhiều tờ báo thời ấy với bút danh Kim Anh.
Đến tuổi trái tim biết rung động, tình yêu đầu đời của Võ Nguyên Giáp may mắn đã cộng hưởng với mối tình đầu của Nguyễn Thị Quang Thái. Họ gặp nhau lần đầu tiên trong một chuyến tàu lửa, Giáp đang làm nhiệm vụ, Quang Thái thì cùng bạn bè vào nhập học ở trường Đồng Khánh. Những sợi tơ tình vấn vít họ và đưa tới lễ thành hôn thắm thiết vào năm 1935. Thái hai mươi tuổi, Giáp hai mươi bốn. Hai trí thức trẻ, thông minh, tràn ngập lòng yêu nước và ý chí dấn thân.
Đó là một cuộc hôn nhân mà rất nhiều năm sau này nhớ lại, ông Giáp vẫn xúc động: “Quang Thái là người rất kiên quyết trong hành động và cũng rất nhân hậu trong ứng xử”. Hạnh phúc vợ chồng ngắn ngủi đến không ngờ. Năm 1940, khi con gái đầu lòng là Võ Hồng Anh chưa đầy tuổi thì Võ Nguyên Giáp phải chia tay người vợ trẻ để đi làm nhiệm vụ ở Vân Nam, Trung Quốc. Năm 1944, khi Võ Nguyên Giáp trở thành người chỉ huy đầu tiên của lực lượng võ trang Việt Nam ở núi rừng Đông Bắc thì Quang Thái mất ở trong nhà tù của Pháp. Gần một năm sau, trong một cuộc họp lãnh đạo, ông Giáp mới được ông Trường Chinh chuyển cho cái tin xé ruột này.
Cũng vẫn do mối quan hệ thân tình rất dài lâu với người thầy, người bạn vong niên Đặng Thai Mai mà ông Giáp may mắn một lần nữa gặp được người phụ nữ thứ hai và cũng là người phụ nữ ông hài lòng cùng ông đi trọn cuộc đời. Ông hơn bà những 16 tuổi và khi họ lấy nhau tại Hà Nội, bà vừa mới bước sang tuổi 19. Người phụ nữ đó là Đặng Bích Hà, ái nữ đầu lòng của nhà văn hoá lớn Đặng Thai Mai. Bà với trí tuệ mẫn tiệp và phong thái tự nhiên một cách hoàn hảo.
Ông Giáp đã có lần tâm sự với những người gần gũi, rằng chính những đặc điểm ấy của Bích Hà đã xoá đi khoảng cách tuổi tác giữa ông và bà những năm đầu tiên chung sống ở chiến khu Việt Bắc – nơi bà lần lượt sinh cho ông ba người con: Võ Hoà Bình (1951), Võ Hạnh Phúc (1952), Võ Điện Biên (1954). Về lại Hà Nội, bà còn sinh thêm cho ông người con trai út Võ Hồng Nam (1956).
Có lúc, người viết bài này đã hỏi Hoà Bình: “Ở nhà, hai cụ gọi nhau bằng gì hả chị?”. “Bằng anh và em”. “Thế ông Mai khi sinh thời gọi ông Giáp bằng gì?” “Bằng anh Văn. Lúc nào cũng gọi là anh Văn”. |
Là vợ của đại tướng tổng tư lệnh quân đội và còn nhiều chức danh lớn khác đi sau cái tên lẫy lừng của ông, nhưng bà Hà vẫn không thay đổi những đặc điểm hình thành ở bà từ thời thiếu nữ. Trí tuệ mẫn tiệp, phong thái tự nhiên hoàn hảo theo cách mà ông và các con vẫn hay nói về người vợ, người mẹ thân yêu của mình “rất vô tư, khoáng đạt, luôn muốn nói ra những gì bản thân đã nghĩ, đang nghĩ”. Bà cần mẫn làm nhiệm vụ một nhà nghiên cứu, giảng viên đại học cho đến tận ngày nghỉ hưu. Tiếp đón niềm nở những người bạn cũ và mới của cả hai vợ chồng tại nhà riêng, khi thì bánh trái, khi thì bữa cơm. Như bao người vợ khác. Ngay cả những khi sóng gió, căng thẳng của chính trường dội vào phu quân của mình, bà vẫn cư xử bình thản với mọi người bên trong và bên ngoài ngôi nhà – tổ ấm của mình. Bà cố giữ để những bất thường của cuộc đời không thể làm xáo trộn cuộc sống của gia đình mình và nhất là không để cho các con cháu mất niềm tin vào những điều tốt đẹp hằng có và vẫn còn có.
Không phải những quyết định đến từ đâu đó, vào những lúc nào đó đối với người thân yêu nhất của bà đều đúng, thậm chí là có sai nữa kia. Nhưng cũng không vì thế mà bà và những đứa con đã trưởng thành của bà thoả hiệp với những thông tin có thể gây hiểu lầm trong xã hội khi có những thay đổi trong chức vụ công tác của ông. Ví dụ, về cái câu “thống chế đi đặt vòng”, ám chỉ thời kỳ ông đảm nhận chức chủ nhiệm uỷ ban Kế hoạch hoá gia đình, bà và các con của bà vẫn luôn đính chính những khi có thể, rằng trước ông đã có lúc Thủ tướng Phạm Văn Đồng kiêm chức vụ này. Đến thời ông, là Phó Thủ tướng phụ trách công tác chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật của Chính phủ và kiêm thêm uỷ ban ấy chứ không phải chỉ làm nhiệm vụ ấy.
Những khi có chuyện gì đó mà một trí thức yêu nước, một bô lão như ông không thể không lên tiếng, bà và các con vẫn ủng hộ ông, bất kể tuổi tác, sức khoẻ của ông và dư luận khác nhau về việc ông làm. Miễn điều ông đang làm là đúng, là có lợi cho dân, cho nước và ông vui thì những người thân yêu của ông phải ủng hộ, phải bảo vệ.
Khi ông Giáp học nhạc lý với giáo sư Tô Vũ và học piano với nhà giáo âm nhạc Bích Hạnh, học cho đến lúc ông chơi được một số bản nhạc, cả nhà đều ủng hộ vì biết rằng, với ông những lúc đánh đàn, những lúc bơi thuyền ở hồ Tây là lúc mà ông được dứt hoàn toàn khỏi công việc triền miên tưởng như không thể dứt ra. Bằng cái cách bà sống “vượng phu ích tử” lặng lẽ như thế, các con của bà, trai cũng như gái đều thấm được từ cha mẹ cái giá trị sống quan trọng này: “Gia đình là gia đình. Đó là cái gương nơi người ta có thể soi rọi các giá trị thật. Nơi người ta tìm được sự bình yên sau những giông tố, thất bại của cuộc đời. Nơi người ta truyền dạy cho nhau những gì họ thực sự cảm nhận là đúng, là hay. Mỗi con người đều có niềm riêng và gia đình phải là nơi niềm riêng ấy được chia sẻ tận cùng nhất”.
Trong ngôi nhà của tướng Giáp, các con ông yêu quý nhau và luôn sẵn sàng giúp nhau khi khó khăn. Chị cả Võ Hồng Anh – con của ông Giáp với bà mẹ trước Quang Thái luôn được các em yêu thương và cũng yêu thương các em hết mực. Chị Hồng Anh thiệt thòi nhiều về tình cảm vì mất mẹ từ quá sớm, lại hay phải xa nhà đi học, đi làm. Niềm riêng ấy của chị được cô Hà, được các em thấu hiểu và ra sức bù đắp. Khi con gái của Hạnh Phúc bị bệnh nặng, bác Hồng Anh chạy đôn đáo để lo cho cháu. Còn Hoà Bình, khi nói về bà chị của mình đã rất dứt khoát rằng: “Chị Hồng Anh của tôi là người rất mạnh mẽ và rất thông minh. Chị tôi có thành tích học tập rất rực rỡ. Các chị em của chúng tôi đều rất tự hào về chị”. Có lúc, người viết bài này đã hỏi Hoà Bình: “Ở nhà, hai cụ gọi nhau bằng gì hả chị?”. “Bằng anh và em”. “Thế ông Mai khi sinh thời gọi ông Giáp bằng gì?”. “Bằng anh Văn. Lúc nào cũng gọi là anh Văn”.
Một trong những đứa cháu ngoại của ông Giáp tên là Nguyễn Phương Tâm, con gái duy nhất của vợ chồng cựu đại tá kỹ sư quân đội Võ Hoà Bình, hiện đang làm quản lý một khu resort nổi tiếng ở Bà Rịa – Vũng Tàu, đã từng hé lộ cảm nhận rất sâu sắc của cô về niềm hạnh phúc giản dị và vô giá cô có được từ sự bình yên trong ngôi nhà của ông bà ngoại – nơi cô từng sống những năm thơ ấu. Trong một bài viết của Phương Tâm, có đoạn đại ý: sau một đêm được nằm với ông bà, cô thức dậy sớm và nằm yên để lắng nghe những tiếng động trong nhà. Tiếng ông bà nói chuyện âu yếm với nhau. Tiếng ông mở cửa ra hiên tập thể dục, rồi mở đài BBC. Với cô gái nhỏ, khoảnh khắc ấy sao mà bình yên quá chừng. Đấy là nhờ bà, nhờ ông mà cô bé mới được tắm mình vào những khoảnh khắc yên bình thanh sạch ấy. Cô bé có đi đến đâu, có làm những gì to tát đến mấy đi nữa thì khoảnh khắc yên bình quý giá ấy vẫn đi cùng, an ủi, vỗ về tâm hồn cô.
Còn cựu đại tá Võ Hoà Bình thì trong một lần trò chuyện có nhắc đến lời tâm sự của ông ngoại chị là nhà văn hoá Đặng Thai Mai, đã lâu lắm rồi, khi chị mới độ mười ba, mười bốn “Phải rất quan tâm đến tư đức thì mới mong có nền giáo dục đúng nghĩa. Tư đức là cái nền tảng của con người mà gia đình phải sớm chăm lo, chăm lo thật kỹ. Các phương tiện truyền thông có lẽ đã chưa nói đầy đủ và chính xác về cái tư đức quan trọng này. Chính tư đức sẽ làm nên sự vững chãi của một con người, của một gia đình và dĩ nhiên là xã hội sau đó”. Người ta cứ tự nhiên làm những cái sai với đạo lý, với con người và chẳng được nhắc nhở, chẳng được uốn nắn kịp thời thì làm gì mà chẳng tạo nên sự bất an đây đó kéo dài trong đời sống xã hội.
Tôi lại nhớ ngôi nhà số 30 Hoàng Diệu. Nơi ấy ông Giáp đã cùng bà Hà và các con ở suốt từ khi ở Việt Bắc về Hà Nội năm 1954 đến nay. 56 năm rồi. Hà Nội đang đón chào Thăng Long ngàn năm. Còn tướng Giáp, người cuối cùng trong lứa học trò trực tiếp của Hồ Chí Minh, đã bước vào tuổi một trăm trong chính ngôi nhà hạnh phúc của riêng mình. Những người yêu mến ông trên đất nước này, nghĩ đến đó thôi có lẽ đã cảm thấy rưng rưng một nỗi niềm thật khó tả…
Nguyễn Thế Thanh
(Nguyệt San Sài Gòn Tiếp Thị)