Thứ Năm, 26/9/2024
Diễn đàn
Thứ Bảy, 24/7/2010 10:40'(GMT+7)

Tính thuyết phục, sắc bén, hiệu quả của công tác Tuyên giáo, truyền thống 80 năm và những đòi hỏi mới của sự nghiệp cách mạng ở nước ta

Lịch sử 80 năm truyền thống của ngành Tuyên giáo là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại và phát huy những thành tựu to lớn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, phát triển đất nước từ khi có Đảng. Vượt qua biết bao khó khăn thử thách, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người cha già của dân tộc, nhà tư tưởng vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá mang tầm vóc thế giới, con thuyền cách mạng Việt Nam đã vượt qua bao nhiêu thác ghềnh, khó khăn, thử thách, để đến hôm nay, có được một đất nước độc lập, một dân tộc tự do, tiến bước cùng thời đại. Có thể nói, đóng góp vào thành quả chung đó, ngành Tuyên giáo có một vị trí xứng đáng, vị trí quan trọng hàng đầu trong công tác lãnh đạo của Đảng.

Xét về mặt lịch sử, công tác tư tưởng bắt đầu ngay tư khi Đảng ta ra đời, với yêu cầu cần thiết phải làm cho đông đảo quần chúng nhân dân hiểu được mục đích của Đảng, do đó từ mục tiêu cao cả của mình, đồng thời cũng xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, sự nghiệp cách mạng muốn thành công phải bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức, phải làm cho quảng đại quần chúng nhân dân hiểu được mục đích của Đảng, phải vận động, thuyết phục, nội dung, cách làm phải hiệu quả, sắc bén. Ngay từ Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 30.10.1930 tại Hương Cảng, khi thảo luận và thông qua Luận cương chính trị do Đồng chí Trần Phú khởi thảo, thông qua Nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thông qua Điều lệ Đảng và Điều lệ của các tổ chức quần chúng. Hội nghị đã đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, cử ra Ban Thường vụ Trung ương. Về công tác tư tưởng, Nghị quyết Trung ương nêu rõ: Đảng phải làm cho càng ngày càng đông quần chúng biết mục đích của Đảng và ý kiến của Đảng đối với các việc quan trọng xẩy ra. Muốn được như thế thì Đảng phải mở rộng việc tuyên truyền cổ động ( ra báo, sách, truyền đơn, diễn thuyết...). Lại phải biết lợi dụng các cơ hội mà hoạt động công khai... tổ chức mít tinh, diễn thuyết, rằng “ Phải huấn luyện cho đảng viên và thợ thuyền theo đại cương của chủ nghĩa Mác- lê nin mà giải quyết những việc xẩy ra trong sự đáu tranh giai cấp hàng ngày, và căn cứ vào những kinh nghiệm đấu tranh mà phát triển trình độ tư tưởng” .

Tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả của công tác tuyên giáo luôn được kiểm chứng từ thực tiễn, được thực tiễn phong trào cách mạng phản ánh đầy đủ qua những kết quả, những thành công hay thất bại, thuận lợi và khó khăn của việc triển khai thực hiện nhiệm vụ cụ thể, trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị. Điều đó đã được phản ánh ngay từ những năm đầu, Đảng ta mới ra đời, kinh nghiệm đấu tranh cách mạng còn hạn chế, công tác tuyên truyền, vận động quần chúng chưa theo kịp với diễn biến sôi động của của phong trào yêu nước đang ngay một lên cao. Tại Hội nghị Trung ương tháng 8.1937 và tháng 3.1938, sau khi kiểm điểm tình hình các mặt, khẳng định sự thành công của phong trào cách mạng trong hơn một năm qua, sau Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng tháng 7. 1936. Về công tác tuyên truyền, cổ động, Trung ương phê phán cách tuyên truyền cổ động còn ít chú ý đến tâm lý, nguyện vọng, trình độ quần chúng và hoàn cảnh từng nơi, lúc nào cũng cổ động, biểu tình, bãi công, cướp chính quyền. Trong báo chí, có nhiều bài vở nội dung chưa thiết thực, thiên về lý thuyết. Về đối tượng tuyên truyền, khi đề cập tới nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân, mới chỉ chú ý tới công nông, chưa chú ý tới các tầng lớp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, v.v. rằng báo chí chưa thực sự trở thành cơ quan ngôn luận của toàn thể nhân dân...

Từ những bước đi ban đầu ấy, mỗi thời kỳ cách mạng lại có những yêu cầu, đòi hỏi riêng về nội dung, hình thức, biện pháp công tác tuyên truyền, giáo dục, và do đó, tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả của công tác này cũng được phản ánh trong từng thời kỳ, mỗi chặng đường và trong những nhiệm vụ cách mạng lớn mà dân tộc ta phải trải qua trong những năm tháng đó và cho đến ngày nay. Có thể thấy, đó là cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết- Nghệ Tĩnh, thời kỳ Mặt trận dân chủ, cao trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1930-1945; thời kỳ 1945-1954 công tác tuyên giáo với việc huy động sức người, sức của cho việc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; thời kỳ 1954-1975, công tác tuyên giáo với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối- đất nước ta hoàn toàn độc lập; thời kỳ từ 1975 đến nay, công tác tuyên giáo trong điều kiện cả nước thống nhất, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Lược theo dòng lịch sử, với những dấu ấn đậm nét về bước trưởng thành của cách mạng Việt Nam, trong đó có sự đóng góp của công tác tuyên giáo của Đảng, từ khi Đảng ta ra đời, cho đến việc lật đổ ách thống trị, đô hộ của thực dân, phong kiến, ra đời Nhà nước công nông đầu tiên; từ việc củng cố Nhà nước non trẻ của dân, do dân và vì dân, thực hiện những nhiệm vụ đầu tiên: diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, cho đến chiến thắng Điện Biên Phủ - lừng lẫy non sông, chấn động địa cầu; tiếp đó là thời kỳ cả nước ra trận, sự khốc liệt của cuộc chiến tranh bước vào thời kỳ mới, cuộc chiến tranh chống Mỹ và thắng Mỹ xâm lược, đỉnh cao là chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Những thành quả đó, càng khẳng định một chân lý, trong thời đại ngày nay, một dân tộc nhỏ có thể đánh bại đế quốc lớn, nếu dân tộc đó có một Đảng chân chính lãnh đạo, có đường lối đúng, biết tập hợp sức mạnh của cả dân tộc và sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, sự giúp đỡ của các nước anh em. Nếu như trong chiến tranh cách mạng, xét trên khía cạnh đóng góp của ngành Tuyên giáo, tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả của công tác này được thử thách qua sự khốc liệt của cuộc chiến tranh, ở sự mạnh yếu trên chiến trường, thì thời kỳ 1975 đến nay, đó là một giai đoạn mới, sự đa dạng, phong phú, tác động của quá trình hội nhập, mở cửa trong xu thế toàn cầu hoá, cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp không kém, vừa phải đảm bảo sự độc lập, toàn vẹn chủ quyền của đất nước, vừa đảm bảo con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đối với công tác tuyên giáo, tính thuyết phục, sắc bén, hiệu quả mang một ý nghĩa rộng lớn, ở tầm vĩ mô, đó là việc chuyển tải ý thức hệ tư tưởng, cương lĩnh cách mạng, đường lối, chủ trương của Đảng, nhiệm vụ chính trị to lớn mà Nhà nước cùng toàn dân tổ chức thực hiện trong từng giai đoạn đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân; ở sự thông tin, giải thích cho bạn bè quốc tế, ở sự đấu tranh sắc bén chống lại các luận điệu chống phá của các thế lực cơ hội thù địch trong và ngoài nước. Trong phạm vi cụ thể, tính thuyết phục, sắc bén, hiệu quả được thể hiện trong từng chủ trương, chính sách, từng đối tượng mà công tác này hướng tới. Bởi vậy, xét trên phương diện khoa học, đó còn là tác động của chủ thể, người đi tuyên truyền, đến khách thể, tức là đối tượng được tuyên truyền về những vấn đề cốt yếu của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin, thống nhất hành động, phát huy được sức sáng tạo của quần chúng nhân dân, biến các quan điểm, mục tiêu, đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng. Chính vì vậy, giữa tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả luôn có quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau. Nếu như tính thuyết phục đòi hỏi cả về nội dung, phương pháp, công cụ tuyên truyền phải phù hợp đối tượng, làm cho đối tượng “ tâm phục, khẩu phục”, từ đó chuyển hoá từ niềm tin thành hành động tự giác, còn tính sắc bén vừa là tính thuyết phục, nhưng còn là tính chiến đấu, chú trọng ở những lĩnh vực và đối tượng, đặc biệt là trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Làm tốt tính thuyết phục, tính sắc bén trong công tác tuyên giáo cũng có nghĩa là hiệu quả công tác này đã đạt được. Tất nhiên, trên bình diện chung của ngành Tuyên giáo, tính hiệu quả còn được thể hiện ở tổng thể các hoạt động, các chi phí vô hình và hữu hình đã bỏ ra và kết quả thu được...Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả trong quá trình thực thi nhiệm vụ của công tác tuyên giáo, trong đó có cả nhân tố chủ quan và khách quan, nhưng quan trọng nhất, quyết định nhất vẫn là nhân tố chủ quan.

Có thể thấy rõ, tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả của công tác tuyên giáo Đảng được ghi nhận và thể hiện qua những thành tựu cơ bản và kinh nghiệm của ngành trong 80 năm qua:

Thứ nhất, qua các giai đoạn cách mạng, công tác tuyên giáo đã cung cấp kịp thời những luận cứ khoa học, cơ sở lý luận và thực tiễn, góp phần hình thành hệ thống các luận điểm mới trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực tiễn quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở nước ta, qua các giai đoạn đòi hỏi, vừa đảm bảo cho sự phát triển của đất nước theo con đường đã chọn, trong đó nhiệm vụ giữ vững độc lập chủ quyền, lãnh thổ, vừa đảm bảo cho nên kinh tế phát triển cao, xã hội ổn định, đời sống vất chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao, vị thế của đất nước ngày càng có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Trong quá trình đó, nhiệm vụ vừa triển khai thực hiện, vừa bổ sung, phát triển và làm phong phú hơn cơ sở lý luận và thực tiễn cho con đường đi lên của đất nước qua mỗi giai đoạn. Chính những thành tựu to lớn đã đạt được của đất nước không chỉ chứng minh tính sắc bén, thuyết phục và hiệu quả mà còn khẳng định tính đúng đắn của các luận cứ khoa học của các chủ trương, đường lối của Đảng mà ngành Tuyên giáo có tham gia đóng góp.

Thứ hai, thành quả quan trọng cần khẳng định sự đóng góp của ngành Tuyên giáo, đó là việc giáo dục, tuyên truyền có hiệu quả chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Sự ổn định và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải tuyên truyền, giáo dục học thuyết, hệ tư tưởng, kiên định con đường đã chọn. Nội dung và cách làm cũng yêu cầu phải kiên trì, thuyết phục và sắc bén, nhất là trong bối cảnh thế giới ngày này.Có thể thấy, tuy còn nhiều vấn đề cần đổi mới, tổng kết kinh nghiệm, nhưng cho đến nay, nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống, biến thành niềm tin, thành hành động cách mạng của quảng đại quần chúng nhân dân lao động.

Thứ ba, góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược con người ở nước ta, xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, đòi hỏi phải chú trọng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước...ngành Tuyên giáo đã tham mưu cho Đảng nhiều văn bản, nghị quyết, kết luận về vấn đề này qua các kỳ đại hội Đảng, các hội nghị trung ương, đóng góp vào việc hoạch định chính sách của Nhà nước về vấn đề này. Đồng thời trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện sâu rộng trong cả nước tư trung ương đến địa phương. Quan điểm xuyên suốt của chúng ta là luôn hướng tới việc xây dựng và phát triển con người, coi con người là trung tâm, đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, gắn ngay từ đầu, trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển.

Thứ tư, là lực lượng quan trọng trong việc tham mưu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Ngay từ đầu những năm 40 của thế kỷ trước, trong lúc nhiệm vụ giành độc lập dân tộc, xây dựng Nhà nước kiểu mới đang đến gần, Đảng ta đã công bố Đề cương văn hoá Việt Nam, bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Xác định nền văn hoá mới Việt Nam là nền văn hoá dân tộc, đại chúng và khoa học. Tính thuyết phục và sắc bén của những luận điểm này không chỉ đảm bảo sự kế thừa, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của dân tộc và thế giới mà con định hướng cho sự phát triển nền tảng tinh thần cho quá trình phát triển lâu dài của đất nước Những luận điểm mới, đóng góp về cơ sở khoa học, luận cứ cho sự phát triển nền tảng tinh thần của xã hội còn được ngành Tuyên giáo tham mưu liên tục trong suốt 80 năm qua.

Thứ năm,trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội về tư tưởng, định hướng tuyên truyền, nắm bắt dư luận xã hội. Tăng cường củng cố khối đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận của toàn xã hội, đồng thời, nâng cao khả năng phát hiện những vấn đề mới, nhạy cảm, phát sinh và khả năng dự báo xu hướng phát triển. Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, việc phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn luôn là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển, dự báo đúng và đưa ra những biện pháp sắc bén là cơ sở đảm bảo sự ổn định xã hội, đồng thời qua đó cũng đảm bảo hiệu quả hoạt động của ngành Tuyên giáo. Quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hoá từ một nước kinh tế phát triển thấp là chưa có tiền lệ trong lịch sử, do đó dự báo, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, giải quyết những bức xúc của xã hội về tư tưởng để tạo sự đồng thuận có vị trí hết sức quan trọng.

Thứ sáu,đi đầu trong việc đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch của các thế lực cơ hội, phản động chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng.. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua cũng như kinh nghiệm các nước XHCN, phong trào cánh tả và công nhân quốc tế cho thấy, các thế lực thù địch luôn âm mưu chống phá với nhiêu thủ đoạn tinh vi, sảo quyệt nhằm xoá bỏ hệ tư tưởng, xoá bỏ Đảng Cộng sản, xoá bỏ chính quyền cách mạng ngay từ buổi ban đầu. Bởi vậy, nâng cao khả năng đề kháng, bản lĩnh chính trị, đấu tranh làm thất bại các âm mưu phá hoại của các thế lực cơ hội, thù địch dưới nhiều hình thức luôn đòi hỏi sự sắc bén về nội dung và phương pháp, tính hiệu quả trong các loại hình, công cụ thực hiện. Đặc biệt trọng điều kiện khoa học, công nghệ phát triển, các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, an ninh truyền thống, phi truyền thống...luôn là những vấn đề nhạy cảm, dễ bị các thế lực thù địch xuyên tạc, lợi dụng.

Bối cảnh mới của sự nghiệp cách mạng của đất nước đặt ra nhiều yêu cầu, đòi mới đối với ngành Tuyên giáo, đặc biệt trong vấn đề nâng cao tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả trong các hoạt động của ngành, không chỉ kế thừa, phát huy những thành tựu, kinh nghiệm của 80 năm qua, mà còn nhạy bén, dự báo và phát hiện những điểm mới, sự khác biệt, những thuận lợi và khó khăn phía trước.

Về quốc tế, bên cạnh những thuận lợi được dự báo là xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu hướng lớn của thời đại, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vẫn chi phối tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, tạo nên cả thời cơ và thách thức cho mỗi nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, những diến biến phức tạp của tình hình thế giới, đặc biệt là xung đột sắc tộc, khủng bố, tranh chấp chủ quyền biển, đảo vẫn diễn biến khó lường, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ly khai, vấn đề dân tộc, tôn giáo, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi.

Xu thế toàn cầu hoá với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ, ngày càng thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức lớn trên thế giới. Các nước sau khủng hoảng kinh tế, đang trong quá trình phục hồi, nhưng diễn biến còn nhiều phức tạp, khó lường với nhiều mức độ khác nhau. Quá trình cấu trúc lại nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế luôn là sự quan tâm của nhiều quốc gia, dân tộc. Vấn đề phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai,. bệnh dịch và nhiều vấn đề lớn khác... đòi hỏi phải có sự phối hợp tham gia của nhiều quốc gia mà khong một nước riêng lẻ nào có thể tự giải quyết.

Theo dự báo, đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trực tiếp là khu vực Đông Nam Á vẫn là khu vực phát triển năng động, giữ vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc tế. Mặc dù vây, ở đây vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố không ổn định, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc ...đe doạ đến sự ổn định, hoà bình chung của khu vực.

Ở trong nước, nhiều thuận lợi, khó khăn và thách thức cũng đặt ra đòi hỏi mới cho công tác tuyên giáo, đặc biệt là yêu cầu cao về tính thuyết phục, sắc bén, hiệu quả của công tác này. Đó là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước đã đạtk được sau 25 thực hiện công cuộc đổi mới, đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, thế và lực của đất nước lớn mạnh hơn nhiều so với trước, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng đói nghèo và trở thành quốc gia đang phát triển ở mức trung bình. Vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên thế giới...Tuy nhiên, trong những thập niên tới, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức không thể xem thường, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, phân hoá giầu nghèo có nguy cơ ngày càng gia tăng, trật tự, an toàn xã hội có những biểu hiện đáng lo ngại, tình trạng thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng. Các thế lực thù địch tăng cường hoạt động diễn biến hoà bình, thúc đẩy tự diễn biến từ bên trong với những âm mưu, thủ đoạn ngày cang tinh vi, phức tạp hơn; thiên tai, dịch bệnh, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định và phát triển của đất nước. Những khó khăn, thách thức đó không chỉ đặt ra đối với cả nước, các cấp, các ngành, trong đó trực tiếp là ngành Tuyên giáo, đòi hỏi có sự đổi mới, nâng cao tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả trong từng nội dung, hình thức hoạt động, trên từng vấn đề lớn, trọng tâm trong nhiệm vụ của ngành ở giai đoạn mới.

Trước hết, đó là yêu cầu nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới, khẳng định tính đúng đắn và kiên định đối với chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền và giải đáp có sức thuyết phục, sắc bén và hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng , nhất là cương lĩnh đã được bổ sung, sửa đổi, đường lối chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua, làm cho toàn Đảng, toàn dân thấm nhuần, biến thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.

- Tăng cường tính thuyết phục, sắc bén và hiệu quả công tác tuyên truyền, tạo niềm tin tất thắng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính thuyết phục của cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và các cuộc vận động khác để ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, lấy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực, phản bác kịp thời, sắc bén âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nâng cao sức đề kháng trong toàn xã hội nhất là thế hệ trẻ.

- Đưa cuộc vận động xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư đi vào chiều sâu, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, trong đó đặc biệt coi trọng việc phát triển nền văn học, nghệ thuật mang đậm tính nhân văn, dân chủ; phát triển nền báo chí cách mạng theo hướng chính quy, hiện đại; giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong mỗi bước phát triển kinh tế. Bồi dưỡng các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện.

- Chủ động, tích cực và nâng cao hiệu quả, tính sắc bén công tác tuyên truyền đối ngoại, làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ và ủng hộ sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước, những thành tựu đổi mới trên các lĩnh vực, đặc biệt về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo; những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có cộng đồng khoảng 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài..

PGS,TS Phạm Văn Linh (*)
Phó Trưởng ban Tuyên giáo TW


___________________

(*) Bài tham luận tại Hội thảo khoa học “80 năm công tác tuyên giáo của Đảng – Kinh nghiệm và đổi mới” do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức, ngày 21/7/2010

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất